Con vịt coi vậy mà gần gũi với bữa ăn của người dân quê miền Nam hơn là con gà. Món gì thịt gà làm được, thì thịt vịt cũng không thua, mà có khi hơn hẳn. Thí dụ món tiết canh, ta chỉ có món tiết canh vịt, chớ ít ai ăn tiết canh gà.
Biết sao không? Đàn ông mà ăn tiết canh gà, đêm đêm sẽ xửng cồ gáy, làm phiền lòng vợ, có khi bị bả đạp xuống gầm giường, rồi nói sao xui!
Người Việt mình khiêm nhượng lắm, cứ cái gì nhỏ thì nhận là của mình, còn cái gì to lớn một chút thì cho rằng của nước ngoài: Con Vịt Xiêm (con ngan Thái Lan) to gấp hai con vịt ta. Trái mãng cầu ta lớn bằng nắm tay mà trái mãng cầu xiêm lớn như trái dừa. Trái chuối tây cũng lớn hơn trái chuối cau của ta.
Mà chưa chắc gì trái chuối lớn đó là chuối tây, vì ở bên Tây lạnh quá như vậy dễ gì chuối sống nổi, ngay cả nước Tàu kế bên VN như vậy mà cây chuối còn đèo đọt không lên nổi vì lạnh mà.
Hồi xưa vịt đàn toàn là vịt sẻ màu nâu xám, mỗi con nặng chừng hơn kí lô, nhưng bây giờ vịt đàn gọi là vịt Bắc Kinh màu trắng và to như vịt bầu nhưng cổ cao hơn một chút.
Con gà trống thì khác gà mái rất nhiều, nhìn thấy ảnh là biết ngay, từ dáng to lớn đi nghênh ngang, đến đuôi cong vòng, mào đỏ chót, chân có cựa và lông vũ đẹp đẽ, còn vịt thì lại khác, đực cái gì chúng cũng giống nhau quá. Con đực giọng khàn khàn và chỉ có thể nhận ra anh ta là vì ở ngay phao câu có một cái lông cong tròn lên như chữ C. Nếu nhổ nó đi thì chỉ vài ngày sau lại mọc lên cộng lông mới cũng cong y chang như vậy.
Làm thịt vịt chỉ ngán một nỗi là khi mình nhổ lông nó, nhứt là khi mua nhằm con vịt đang ra lông măng, nhổ muốn chết cha luôn.
Muốn làm lông vịt cho dễ, người ta bỏ vô nồi nước sôi chút xà bông bột, nó sẽ làm tan chất dầu nhờn ở lông và da con vịt thì dễ nhổ hơn.
Khi vừa cắt tiết xong, lấy ống đu đủ nhỏ hay ống trúc luồn vô dưới da mà thổi cho con vịt căng lên to như con ngỗng, lấy dây cột cổ lại cho khỏi xì hơi ra, lúc đó làm lông còn dễ hơn nữa.
Trước khi kể chuyện về cách ăn trộm vịt giữa ban ngày, của bọn con nít rắn mắt, tôi xin nói về cái tỉn nước mắm cái đã.
Khoảng đầu thập niên 60 người ta vẫn còn xài cái tỉn làm bằng đất nung để đựng nước mắm, hồi đó bình bằng ny-lon chưa được phổ biến nhiều. Đó là đồ đựng hình quả trám, nặng chình chịch mà sức chứa chưa tới 4 lít.
Khi đổ đầy nước mắm vô rồi thì nhà thùng dùng xi măng mà khằn cái miệng lại. Tuy nhiên nước mắm vẫn rỉ ra hôi rình. Đã thế chung quanh cái tỉn lại dùng lá kè non mà ràng làm quai xách coi rất bê bối.
Khi mình xài hết nước mắm rồi, mấy cái tỉn bị vất lăn lóc ngoài sau hè. Lâu lâu có cái xe đap ràng cần-xé hay ghe đi mua lông vịt thì mua tỉn luôn. Có khi họ không trả bằng tiền mà chỉ đổi cốm ngào đường mà thôi. Họ đạp xe khắp hang cùng ngõ hẻm hoặc bơi xuồng trong các kinh rạch và rao:
-Ai có ve chai, nhôm bể, lu, lông vịt, hột gòn …. đổi cốm hông ????
Khi nước lụt dâng lên ban đêm, thường thì mấy cái tỉn bị trôi theo giòng nước. Cho dù giòng nước chảy khá mạnh, nhưng vì hình thể của cái tỉn tròn tròn, nó cứ trôi lắc lư từ từ, nên người ta có câu:
-Đủng đỉnh như cái chỉnh trôi sông.
Để tả con người làm gì cũng chậm chạp, không xốc vác chút nào.
Miền Bắc gọi cái tỉn là cái chĩnh, như trong câu: Chuột sa chĩnh gạo. Trong khi người Nam thì lại nói: Chuột sa hũ nếp.
Sở dĩ tôi phải dài dòng về cái tỉn nước mắm là vì đó là dụng cụ để ăn trộm vịt.
Nếu đàn vịt mà còn đang ăn trên đồng cạn nước thì vô phương bắt nó. Người lạ đến gần thì cả đàn chạy dạt ra xa và kêu cạc cạc ầm lên. Anh chàng chăn vịt vác cái sào tre lại đứng trên bờ ruộng thì làm sao bắt trộm cho được.
Phải đợi bầy vịt ra con kinh đào hoặc sông nhỏ mới ra tay được.
Lên phía trên giòng nước chảy, cột vô cái tỉn đã múc nước gần đầy, chỉ nổi phập phờ, một sợi dây nhợ dài như dây diều. Ngay quai xách lại móc hai lưỡi câu có mồi cua hay cá. Cái tỉn được thả trôi xuống phía bầy vịt.
Anh chàng chăn vịt giữa trưa nắng chang chang, nóng thấy ông bà ông vải nên chui vô bóng mát dưới rặng trâm bầu. Anh nằm dài lấy cái nón lá ngửa ra kê đầu, mắt hấp háy nhìn trời và chân thì gác tréo ngoe, vừa nhịp nhịp vừa hát:
-Sương thu lạnh bao trùm khắp nẻo
Trăng đêm nay dìu dịu cả không gian
Tôi với em đi gánh nước cạnh đình làng
Mùi cỏ dại mơ màng trong đêm vắng …..
Nước giếng trong giữa đồi cát trắng
Bên ánh nguyệt mờ soi đôi bóng giao kề
Dưới trăng khuya tôi với em quảy gánh ra về ……
Anh đang mơ màng cái cảnh đi gánh nước với em, thì hai con vịt của anh ăn nhằm lưỡi câu, nó giằng qua giựt lại làm cái tỉn chao đi và nước tràn vô đầy tỉn. Cái tỉn chìm xuống và với sức nặng đó, nó kéo cổ hai con vịt xuống theo tới dưới đáy sông và neo luôn ở đó.
Trong khi anh chủ của nó thì đang rướn cổ lên để ca một câu mùi tận mạng:
-Ba năm sau, tui trở về quê cũ
Gánh nước đêm trăng để tìm lại kẻ chung ..ơ…tình …..
Quảy gánh lên vai tôi thờ thẩn một mình ..
Anh nhỏm đầu nhìn đàn vịt, lấy nón lá rách đội lên rồi vác cái sào dài “thờ thẫn” đi theo đàn vịt, vì chúng không khi nào chịu ăn hoài một chỗ, chừng năm mười phút sau nó đã kéo nhau đi xa cả mấy công ruộng, và anh chăn vịt lại lững thững theo sau, không biết rằng có hai con vịt của anh đầu đang cắm xuống, đít nhổng lên trời, chết mà không kêu lên được một hai tiếng cạc cạc từ giã cõi đời.
Trên cánh đồng mênh mông, giọng hát buồn thoảng theo làn gió:
-Hò ơi ! Ai phụ tôi có đất trời chứng giám
Phận tôi nghèo đâu xứng đáng cùng ai
Tưởng cái giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Ngờ đâu giếng cạn ..
Hò ơi .. ngờ đâu giếng cạn tôi tiếc hoài sợi dây !!
Chờ anh chăn vịt khuất dạng, bọn ăn trộm mới phăng theo sợi dây mà lấy hai con vịt dồn vô bao, thong thả xách về làm thịt để nhậu chơi.