TRẦN MẠNH HẢO – Phần Cuối

tác giả Đỗ Trường
82 xem

TRẦN MẠNH HẢO – NGƯỜI ĐÃ CHẾT VỚI TÂM HỒN BIA MỘ

*Trần Mạnh Hảo với hồn thơ thế sự, xã hội.
Nhiều người cho rằng, mãi đến năm1989 với tiểu thuyết Ly Thân, Trần Mạnh Hảo mới cởi được chiếc vòng kim cô bấy lâu siết chặt ở trên đầu. Với tôi, có lẽ không phải vậy. Khi đi sâu vào đọc một cách có hệ thống, cho tôi thấy, ngay từ tháng 4-1975, khi Trần Mạnh Hảo bước chân vào tới Saigon, chiếc vòng kim cô ấy, dường như chẳng còn tí tẹo ma lực nào nữa. Cho nên, Trần Mạnh Hảo thấy rõ hơn cái ngõ cụt, đường cùng cho thế hệ ông, và cho cả đất nước ông. Trong cái hỗn loạn ấy, không ngồi bệt xuống đường phố Saigon mà khóc như Dương Thu Hương, nhưng nỗi buồn chợt nhói lên, làm cho lời thơ Trần Mạnh Hảo thật chua xót: “Cháu vào tìm ông, sao ông nội vội lên tàu chạy trốn?/ Chưa giải phóng nổi mình, đòi giải phóng cho ông” (Vào Saigon tìm ông nội). Từ nhận thức, tư tưởng như vậy, cho nên thơ văn Trần Mạnh Hảo luôn gắn chặt thân phận đất nước và con người. Và ông cũng nhận ra, đất nước liền một dải, song lòng người càng phân ly. Nhìn những con dân đất Việt buộc phải trốn chạy, xác chết chìm, chết nổi kín cả biển Vũng Tàu, làm cho Trần Mạnh Hảo xúc động mạnh. Sự đồng cảm, và xót thương ấy đã cho người thi sĩ đủ can đảm viết: Cho Một Nhà Văn Nằm Xuống. Một bài thơ rất hay và cảm động. Bởi, ông đã mượn cái chết của nhà văn Nguyên Hồng, để nói về nỗi đau của đồng loại, khi xã hội ngoảnh mặt, hay chính các văn nghệ sĩ cũng quay lưng. Đây là đề tài cấm kỵ, nhạy cảm, vô cùng nguy hiểm của năm đầu thập niên tám mươi. Và Trần Mạnh Hảo là một trong số rất ít các nhà thơ dám viết:
“Bãi biển Vũng Tầu đầy những xác chết trôi
Những người Viêt Nam vượt biên chết chìm trên biển


Chết rồi còn giơ tay cầu cứu
Chết rồi còn quờ tay tìm lối thoát
Đâu nhà văn, đâu người cầm bút
Sao nỡ để nhân vật của mình
Chết trôi chết dạt
Biển ơi! Nỡ vô tình
Như ngàn trang sách
Những tay sóng kia, sao không vuốt mắt
Cho những nhân vật của chúng ta?”
Và như lời chất vấn, hay một bản án dành cho mỗi con người và xã hội này. Một xã hội vô trách nhiệm, giả dối, vắng tình người: “Biển không nhận/ Bờ không nhận/ Những trang sách không nhận/ Không ai nhận những con người/ Ở thời đại mình đang sống?”.
Trần Mạnh Hảo có tài lục bát, sở trường tứ tuyệt, song tôi khoái đọc thơ tự do của ông hơn cả. Bởi, dường như ở đó tôi mới thấy hết được những bộc bạch, tư tưởng, và cái chất tinh tế, tài hoa Trần Mạnh Hảo. Và Con trai tôi và bức tranh tĩnh vật, tuy không phải nằm trong nhóm những bài thơ hay nhất, nhưng nó điển hình cho đặc điểm này trong thơ thế sự, xã hội của Trần Mạnh Hảo. Thật vậy, với lời thơ tự sự, ta không chỉ thấy cái khốn khó về vật chất, mà còn thấy nỗi đau trong tâm hồn, cùng thân phận bọt bèo của thi nhân. Để từ đó, hiển hiện lên chí khí, lương tâm của một con người, một nhà thơ chân chính:
“Bữa cơm nghèo rau dưa muối mắm
Con còi xương, bụng ỏng nhô đầu
Cha còn cái cuối cùng không thể đem ra bán
Là lương tâm mình là một trái tim đau
Cha đã xỉu bao lần trên bản thảo
Mà câu thơ còn hồi hộp lo âu
Lương tháng cha đây chưa đủ mua ký thịt
Ngòi bút cha đây thơ rẻ hơn bèo
Cái nghề văn chương tai ương bất chợt
Bút cha cầm, khi được viết khi treo”
Đọc thơ thế sự, xã hội Trần Mạnh Hảo, không hiểu sao, tôi thường nghĩ, liên tưởng đến nhà thơ Bùi Minh Quốc. Có lẽ, hai bác này có cái “tật” rất thật, giống nhau không chỉ trong thi ca, mà còn trong cả cuộc sống nữa chăng? Và nếu Bùi Minh Quốc phải rùng mình, để rồi vẽ nên bức tranh chân thực, Tổ quốc rùng mình trong cơn nhậu nhoẹt, làm cho người đọc xót xa, căm phẫn: “Chúng nó nhậu từng cánh rừng dải núi/ Từng khoảng trời miệt đất lòng khơi/ Nhậu tất cả từ Vua Hùng để lại/ Nhậu đến nàng Tô Thị hóa thành vôi/ Chúng nó nhậu trên thân em trinh bạch/ Trên lưng mẹ già còm cõi một đời bom” thì Trần Mạnh Hảo đi tìm nguồn gốc, căn nguyên và cất lên Bài ca sự thật: “Bệnh hình thức gọi sai tên sự thật/ Người đói phải nói lời no/ Vị đắng sao lại kêu là mật?”. Có thể nói, Bài ca sự thật là một bài thơ viết về xã hội, song rất sâu sắc, nhẹ nhàng, hay về cả nội dung, tư tưởng, nghệ thuật. Nó không chỉ được viết bằng cảm xúc, còn bằng cả trí tuệ của Trần Mạnh Hảo. Nhưng thật đáng tiếc, bài thơ này không có trong Tuyển tập:
“Nhân loại có bao thời
Sự thật bị thiêu trên giàn lửa
Bruno ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lí nghìn sau còn trả giá
Lịch sử quê hương tôi
Người nói thẳng đã có thời chết chém
Nhưng đất nước
Vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt” (Trích đoạn Bài ca sự thật)
Do vậy, từ hai bài thơ trên của Bùi Minh Quốc và Trần Mạnh Hảo đã gây cảm hứng cho tôi viết bài: Những nhà thơ không thể bóp méo linh hồn, cũng khá lâu rồi, ngay sau Đại hội nhà văn, nhà veo gì đó. Chúng ta hãy đọc lại một trích đoạn dưới đây để rõ tính khí, và cái món sự thật này có khác gì trong thơ của bác Trần Mạnh Hảo hay không:
Kỳ đại hội nhà văn vừa rồi, không hiểu sao, những bài diễn văn, dạng xã luận báo nhân dân, Micro nghe cứ sang sảng làm nhức cả tai người nghe. Ấy vậy mà đến lúc bác Bùi Minh Quốc và Trần Mạnh Hảo phát biểu là cái Micro giở chứng tắc tị, làm hai bác đứng như phỗng, tịt ngòi luôn. Khùng lên, hai bác đổ nghiến cho cái đại hội nhà văn là đại hội bịt miệng. Dù Hữu Thỉnh có giải thích, do trục trặc kỹ thuật, sẽ nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm. Nhưng hai bác lại cho đây là chủ trương của Hữu Thỉnh và ban tổ chức. Nói như vậy có lẽ oan cho Hữu Thỉnh. Cùng đồng đội, nhà văn với nhau, hơn nữa bác Thỉnh là đảng viên ưu tú, lẽ nào đê tiện, bẩn thỉu đến như vậy?
Nghe nói, sau đó bác Quốc, bác Hảo tuyên bố giã từ đại hội bịt mồm, giã từ Hội viên của hội nhà văn. Mấy thằng chúng em ở bên này xin kiến nghị, hai bác đừng tự vất bỏ cái danh hiệu này. Bởi, cái thẻ nhà văn nhiều thằng rất thèm. Cùng bất đắc dĩ, các bác cà thằng nào rửng mỡ, hám danh, bán lấy tiền ăn chơi dối già. Vứt đi uổng lắm. Nếu ở lại, lần đại hội tới các bác cứ việc tham dự và xung phong phát biểu. Chúng em đã bàn nhau mua tặng hai bác cái Micro và âmly. Phòng khi các bác đang phát biểu, Micro của bác Thỉnh, bác Thiều giở chứng như lần trước, các bác chỉ việc rút Micro này ra, bấm và tiếp tục đăng đàn như thường. Chắc các bác cũng biết, loa và âmly của thằng Đức tốt nhất thế giới. Nhỏ như cái Camera thôi nhưng cũng đủ cả hội trường nghe rõ ràng. Dẫu biết rằng, ý kiến của các bác cũng như đàn gảy tai trâu, nước đổ đầu vịt mà thôi, nhưng nó sẽ thoát được cái ấm ức lâu ngày ở trong người. Chứ để lâu ngày dồn nén, đóng cục xộc huyết áp lên đỉnh đầu chứ chẳng chơi.
Trước tổ quốc, thái độ, nhân cách của con người, một đề tài dường như không bao giờ cạn trong ngòi bút Trần Mạnh Hảo. Nếu ở Bài ca sự thật, Trần Mạnh Hảo đi tìm nguyên nhân, thì đến Tổ quốc con âm thầm yêu mẹ là kết quả. Với những khổ thơ, hình ảnh so sánh gần gũi, nhưng rất sâu sắc, ông đã điểm mặt chỉ tên thật rõ ràng. Và từ phép so sánh ấy, ta thấy được bộ mặt tráo trở, lưu manh của những kẻ chức quyền: “Có ai đó hay bàn về Tổ Quốc/ Nằm trong vỏ ốc nói hy sinh/ Ai mặc ấm mà ngồi thương Mẹ rét/ Trước khi yêu Tổ Quốc họ yêu mình/ Có kẻ một thời từng nhân danh Mẹ/ Bán quê hương đổi lấy sang giàu”. Và ở đó, hiện lên tâm hồn giản dị, âm thầm, yêu quê hương, đất nước nồng nàn của những người dân chân lấm, tay bùn: “Mẹ ơi, bao người chưa từng nói về Tổ Quốc/ Lấy mồ hôi gieo hạt lúa nhọc nhằn/ Tâm hồn họ như khoai vùi trong bếp/ Lúc đói lòng, xin được bới ra ăn”. Có thể nói, Tổ quốc con âm thầm yêu mẹ là bài thơ có bố cục rất lạ. Lạ bởi có sự so sánh đối lập của các khổ thơ làm nên những nét riêng biệt, mới lạ đó.
Đọc phê bình, đôi khi cả văn xuôi cho tôi cảm giác bác Trần Mạnh Hảo cứ như trái bom chùm vậy. Người không có kỹ thuật, nghiệp vụ táy máy động vào, nổ liền tù tì ngay tức khắc. Nhưng quái lạ, trong thơ hồn khí bác lại khác hẳn. Kể cả thơ thế sự, xã hội đôi khi nhẹ nhàng, mềm mại, làm người đọc cứ ngỡ thơ tình. Đến đất Hàn, Trần Mạnh Hảo bị thôi miên ngay tắp lự, bác đứng nghiêm Chào Seoul. Sự liên tưởng vắt hồn thi sĩ ngược về đất Việt quê nhà. Và trong cái mơ màng ấy, chợt bật ra cho nhà thơ một cảm xúc, một thi tứ. Có thể nói, Chào Seoul một bài thơ lục bát (tứ tuyệt) điển hình cho đặc trên, được Trần Mạnh Hảo viết trong hoàn cảnh như vậy. Với phép so sánh, hoán dụ, hiển hiện lên trong lòng thi sĩ một giấc mơ Seoul cho chốn quê nhà chăng? Hay nỗi đau Việt đang chìm trong cơn ác mộng của thi nhân:
“Seoul năm độ mù sa
Máu xương nghìn thuở bừng hoa anh đào
Chợt nhìn mây Việt trên cao
Đi đâu cũng có chiêm bao che đầu” (Chào Seoul)
Với tình yêu đất nước và con người, cho nên Trần Mạnh Hảo luôn đứng về lẽ phải, ngòi bút ông chọc thẳng vào cái ung nhọt của xã hội. Ông viết nhiều, bài thơ nào cũng nóng hổi tính thời sự. Dù thơ thế sự, nhưng do tài năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật, nên một số bài của Trần Mạnh Hảo có giá trị văn học lâu dài. Rất tiếc, những bài như: Tôi yêu tổ quốc mà tôi bị bắt, hay Nếu Tổ Quốc Tôi Không Còn Biển…không được tuyển chọn. Và Ở Cần Thơ, viết về thân phận của văn nghệ sĩ, song (với riêng tôi) không phải là bài thơ hay của Trần Mạnh Hảo, tuy nhiên vẫn có trong Tuyển tập. Dường như, đây là một trong những bài thơ ứng khẩu trong lúc vui đùa của thi sĩ chăng: “Ở Cần Thơ ít ai cần thơ/ Văn chương phải lũ cá trong lờ?/ Thà đến Ninh Kiều dòm gái gú/ Hơn mò chữ nghĩa viết vu vơ”.
Vấn đề này, tôi không rõ, do khâu tuyển chọn, hay do kiểm duyệt?
Có lẽ, sinh ra và lớn lên từ biển, nên Trần Mạnh Hảo hiểu giá trị, yêu biển hơn ai hết. Hầu như bài nào viết về biển của ông cũng hay. Trong thơ như có ngọn lửa hun đúc hồn khí cha ông vậy. Từ những nhận thức: “Nếu Tổ Quốc không còn biển/ Dân tộc tôi sẽ chết đuối trên bờ/ Chết đuối trên cao nguyên/ Chết đuối trong bùn boxit” đã cho Trần Mạnh Hảo can đảm để viết: Người Anh Hùng Họ Ngụy. Đây là bài thơ thế sự, xã hội rất đặc biệt. Đặc biệt bởi, có rất ít nhà thơ ở trong nước đủ dũng khí viết ngợi ca, và tạc chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa sừng sững giữa biển cả như vậy. Dù rằng, người người lính ấy, can đảm hy sinh chống giặc Tàu. Hơn thế nữa, tác giả đã từng là bộ đội ở bên kia chiến tuyến. Có lẽ, ngoài lòng can đảm, còn phải nói đến bút lực của Trần Mạnh Hảo nữa:
“Người yêu nước không thể nào là ngụy
Người chết vì nước như anh không thể nào là ngụy
Nhưng anh: Là Ngụy Văn Thà
Anh – hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo
Lao thẳng vào tàu giặc cướp
Tên anh còn mãi với Hoàng Sa
Biển vật mình thét đại bác
Giặc bủa vây chiến dịch biển người
Lửa dựng trời dìm tàu giặc
Máu anh cùng đồng đội ngời ngời
Ôm chặt tàu
Ôm chặt đảo
Anh hóa thành Tổ Quốc giữa trùng khơi“
Tôi rất khoái đọc những bài thơ chiêm nghiệm, liên tưởng với mối quan hệ thống nhất, hoặc đối nghịch, dưới cái quan sát tỉ mỉ của Trần Mạnh Hảo. Những bài thơ ngũ ngôn này, thường từ bốn đến sáu câu ngắn gọn, song có tính triết lý về vũ trụ, tự nhiên. Với góc nhìn sâu sắc của mình, nhà thơ đã cho ta thấy được giá trị thực khác nhau của mỗi sự vật, con người ở đằng sau hiện tượng ấy: “Mặt trời quá vĩ đại/ Hạt sương quá nhỏ nhoi/ Mặt trời không mang nổi/ Dù một hạt sương rơi/ Nhưng trong hạt sương ấy/ Có bao nhiêu mặt trời?” (Mặt trời và hạt sương). Và ở đó cho ta thấy, tính triết luận, liên tưởng về con người, cùng giá trị của tâm hồn và lẽ sống. “Đâu dám chê bùn đen/ Từ bùn sâu sen nở/ Khi em ngắm hoa sen/ Có nghe bùn nín thở?” (Bùn và sen). Rồi như để lại cho ta một sự trải nghiệm về mối quan hệ cuộc sống trong quy luật tự nhiên ấy: “Ta đã ngủ triệu năm/ Trước ngày oa oa khóc/ Ta còn cả triệu năm/ Để ngủ hoài trong đất” (Đừng sợ mất ngủ).
Là người nghiên cứu, am hiểu sâu sắc về tôn giáo, do vậy cuộc sống, cũng như thi ca Trần Mạnh Hảo đến gần hơn giáo lý Nhà Phật. Với nền tư tưởng đó, Trần Mạnh Hảo viết nên Sát Phật. Một bài thơ ngũ ngôn rất hay, với cái nhìn khác lạ, ở mảng xã hội của ông. Ngoài cái tâm, Trần Mạnh Hảo còn có cái nhìn ngược lại với những quan niệm cuộc sống, tu hành cũ kỹ từ bấy lâu nay. Cái sự cảm thông, nhân bản ấy: “Thuý Kiều vừa thành Phật/ Mười lăm năm tu hành” làm cho tôi chợt liên tưởng đến cái đẹp, sự trinh tiết tâm hồn, chứ không phải ở thể xác trong tiểu thuyết: Bàn tay nhỏ dưới mưa của nhà văn Trương Văn Dân. Có lẽ, bài thơ này ra đời trước đây dăm, bảy chục năm, Trần Mạnh Hảo bị nọc ra giữa sân đình, đánh cho toét đít là cái chắc:
“Thuý Kiều vừa thành Phật
Mười lăm năm tu hành
Cõi tâm thành cõi Phật
Lầu không lầu không xanh“ (Sát Phật)
Có thể nói, cả cuộc đời Trần Mạnh Hảo gắn chặt với văn học nghệ thuật, kể cả khi sự nghiệp, và cuộc đời bị vứt bỏ ra ngoài xã hội. Tình yêu văn học ấy, đã cho ông nghị lực sống, và viết. Đọc Trần Mạnh Hảo, có những lúc, tôi cứ ngỡ ông đang tự vắt kiệt mình cho văn học. Do vậy, khi Trần Mạnh Hảo viết về Nguyễn Bính, mà như viết về chính mình vậy: “Đêm sao sáng cạn hoàng hôn/ Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần”
Leipzig ngày 31-1-2023
Đỗ Trường
(Viết về Trần Mạnh Hảo là công việc thực khó khăn. Ba phần viết về ông từ quan điểm, suy nghĩ chủ quan cá nhân tôi. Do vậy, rất có thể là không đúng. Vâng đúng hay sai, tôi chỉ mong góp một phần nhỏ làm sáng tỏ thêm chân dung nhà thơ vạm vỡ, tài hoa này mà thôi. Và tiện đây cũng xin cảm ơn thi sĩ Trần Mạnh Hảo đã gửi tặng tôi Tuyển tập này)
Phần 1
Phần 2

Những Bài Liên Quan

Copyright © 2023 dactrung.com; all rights reserved