NHÀ GIÀU, CON LÀM ĐIẾM, CHÁU ĂN XIN

TÁC GIẢ: VĂN QUÂN/NGUYỄN CÔNG TÁNH

tác giả Nguyễn Công Tánh
120 xem

DEPOSITPHOTOS: Invoice ID:OD-2659454/ Apr 19, 2023

 

 

 

NHÀ GIÀU, CON LÀM ĐIẾM,

CHÁU ĂN XIN

Tác giả: VĂN QUÂN Nguyễn Công Tánh

Úc CHÂU April 2023

 

 

*
CHƯƠNG 1

 

Từ Sài Gòn đi Vũng Tàu người ta có thể dùng một trong hai lộ trình: hoặc dùng con lộ mới có tên là xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa hay dùng con đường cũ tức là quốc lộ số 1.

 

Để đi về các tỉnh miền Trung, quốc lộ số 1 khởi đầu từ ngã ba cầu Bình Lợi. Từ ngả ba nầy, nếu hướng về phía cực Đông thì sẽ dẫn đến những tỉnh lỵ miền Đông như Bình Dương, Bình Long, Phước Long. Nếu đi chệch về hướng Đông Bắc một chút thì sẽ tới tỉnh lỵ Biên Hoà. Có hai chiếc cầu sắt được bắt ngang qua hai nhánh nhỏ của con sông Đồng Nai trước khi đi vào trung tâm của tỉnh lỵ nầy. Về phía Nam của đoạn cầu thứ nhứt là một thị trấn nhỏ có tên là Chợ Đồn nằm trên giao điểm của quốc lộ số 1 và một con lộ độc đạo đưa tới các quận Tân Quí Đông, Tân Ba và Tân Uyên. Từ con lộ độc đạo nầy, một ngả rẽ ngang đi về một địa điểm dùng để cô lập những người bị phong cùi: đó là Trại cùi Bến Sắn.

 

Quận Tân Uyên cách ngả ba Chợ Đồn khoảng 30 cây số và nằm về bên bờ hữu ngạn của một nhánh nhỏ của con sông Đồng Nai. Phía Đông của quận lỵ Tân Uyên là chiến Khu D với rừng cây dầy đặc san sát, ngút ngàn mà bộ đội của lực lượng du kích dùng làm căn cứ địa dưỡng quân, huấn luyện binh sĩ và làm bàn đạp phát xuất cho những đợt tiến quân hoặc pháo kích vào các tỉnh, quận đang ở dưới quyền kiểm soát của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, hay nhắm vào những căn cứ quân sự của Mỹ, của quân đồng minh, các địa điểm đóng quân của chính phủ.

 

Chiến khu nầy được coi như lũy sắt thành đồng của quân du kích và bộ đội giải phóng của miền Bắc vì thế trở thành một vùng oanh kích tự do của quân đội Mỹ và đồng minh. Quân lực Mỹ có thể gọi phóng pháo cơ khổng lồ B.52 để dội bom vào khu rừng già nầy hoặc dùng đại pháo từ các căn cứ quân sự của quân đội Cộng Hòa để bắn phá vào những địa điểm tụ quân của bộ đội giải phóng.

 

Từ ngã ba Chợ Đồn muốn tới quận lỵ Tân Uyên dân chúng thường chỉ có thể dùng xe lam ba bánh đưa đón hành khách để tới nơi hoặc từ Tân Uyên ra Biên Hoà. Đa số hành khách là đàn bà và trẻ nít mới dám bạo gan tới lui trên con đường độc đạo đầy cạm bẫy và mìn chông nầy. Con đường được coi là tương đối an toàn mỗi khi có những đoàn xe tiếp vận của quân đội Cộng Hòa di chuyển tới lui hậu cứ của trung đoàn 48 biệt lập đóng quân ở sát chợ Tân Uyên; bởi vì chỉ có những dịp như thế thì con đường mới được dò ra mìn bẫy và dọc theo hai bên đường thì có binh lính của trung đoàn 48 được phối trí nằm chận từ sáng sớm để giữ gìn an ninh cho đoàn xe tiếp vận di chuyển lên xuống trong suốt ngày hôm đó.

 

*****

 

Vào một buổi xế trưa mùa hè năm 1968, một chiếc xe lam ba bánh chở đầy hành khách chạy dọc sát lề bên mặt trên con đường đi Tân Uyên song song với đoàn xe tiếp vận của quân đội. Bụi đất tốc bay mù mịt phủ kín thân chiếc xe. Hành khách trong xe bị nhồi lắc như trái banh mỗi khi chiếc xe phải gầm rú lên để trườn lướt qua những ổ gà hoặc hố bom đạn trên lộ trình di chuyển.

 

Trên xe đa số là đàn bà, ông già, bà lão. Trong số hành khách bị dồn ép ngồi bó cứng như nêm đó người ta thấy có một thiếu nữ trạc chừng 13 hoặc 14 tuổi: đó là Phượng Uyên.

 

Từ sáng sớm hôm đó Phượng Uyên đã ra tỉnh lỵ để xem kết quả kỳ thi vào lớp đệ thất trường trung học công lập Biên Hòa. Em mặc một bộ đồ bà ba màu hồng lợt đơn giản, với mái tóc đen cắt ngắn gọn. Nét hiền hòa mộc mạc của một thiếu nữ miền Nam hiện rõ trên gương mặt trái soan cùng với đôi mắt đen nhánh của em. Phượng Uyên nhìn quanh và tươi cười với tất cả mọi người trong xe. Em có vẻ vui mừng hớn hở và yêu đời một cách kỳ lạ. Em quay sang một người hành khách ngồi bên cạnh bắt chuyện. Giọng nói của em phấn khởi và kích thích:

 

–” Thưa thiếm, hôm nay cháu vừa mới thi đậu vô lớp đệ thất trường trung học phổ thông công lập của tỉnh mình đó thiếm! ”

 

Người đàn bà ngồi gần, nhìn Phượng Uyên có vẻ khâm phục và ngạc nhiên :

 

–” Thiệt hả? Sau cháu giỏi vậy? Con của thiếm cũng đi thi vô trường đó nhưng nó bị trượt vỏ chuối, không đủ điểm đậu, dù là đậu vớt cũng không có để có thể nằm trên danh sách đậu dự khuyết! Nó dở quá sức! Năm nay nó 14, 15 tuổi đầu rồi, thi tới thi lui hai ba bận, năm nào cũng thi mà cứ ạch đụi bị rớt hoài, thật chán nản vô cùng!”

 

Người đàn bà thở dài, nín lặng hồi lâu rồi nói tiếp:

 

–” Còn cháu năm nay bao nhiêu tuổi mà giỏi quá vậy? Coi cháu nhỏ xíu óc tiêu hè, vậy mà làm nữ sinh trung học rồi! . . .”

 

Phượng Uyên mỉm cười thích chí:

 

–” Thiếm coi nè, đây là bảng danh sách của những thí sinh trúng tuyển chính thức vào lớp đệ thất năm nay. Nguyễn Phượng Uyên ở hàng thứ 6 là cháu đó! Thiếm có thấy không?”

 

Người đàn bà cầm lấy bảng kết quả quan sát một hồi rồi phất phẩy tờ giấy trước mặt mọi người ngồi trong xe, miệng phân bua:

 

–” Bà con coi nè, nhỏ xíu như vầy mà đã đậu vô trung học rồi mà còn đậu hạng cao nữa mới là giỏi! Con cái nhà ai mà có phước quá trời quá đất! Con của tui mà được như vầy thì dẫu nó có muốn ăn gan rồng, trứng phụng thì tui cũng phải chạy đi kiếm cho ra để nó được vừa ý! . . .”

 

Tầt cả mọi người ngồi trên xe đều trầm trồ tỏ ý khen ngợi cô con gái bé nhỏ tài ba trong khi chiếc xe đã lướt qua cổng kiểm soát dẫn vào trung tâm quận lỵ và chẳng bao lâu đã ngừng lại trước đầu chợ Tân Uyên.

 

Chợ Tân Uyên là một căn nhà lồng rộng lớn, mái lợp tôn, chiếm một diện tích vào khoảng 600 mét vuông. Một đầu chợ nằm sát bờ hữu ngạn sông Đồng Nai còn đầu chợ kia chạy dài ra gần sát con lộ độc đạo dẫn về ngả ba Chợ Đồn. Hai bên chợ là 2 dãy nhà của dân chúng lẫn lộn với những căn phố buôn bán của khu chợ. Trước đầu chợ, ở phía bên kia con lộ là những thửa ruộng khô thiếu nước, lau sậy mọc đầy chen lẫn những mái nhà tranh vách đất chạy suốt dọc từ cổng kiểm soát ra vào quận lỵ cho tới quá phạm vi của hậu cứ bộ chỉ huy trung đoàn 48 biệt lập của quân đội Cộng Hòa.

 

Hậu cứ bộ chỉ huy trung đoàn 48 là một khu thành lũy rộng lớn, kiên cố được bao bọc bằng một vòng đai ụ đất cao dầy trên mặt cặm đầy chong tre vạt nhọn cùng với dây kẽm gai giăng mắc chi chít. Cách bờ đất vòng đai khoảng 20 mét là bãi mìn Klê-mo (claymore) dùng để chống chiến thuật biển người của bộ đội giải phóng và quân du kích. Dọc quanh và trên bờ đất là những vọng gát canh được che bọc bằng những bao cát cứng đầy, kiên cố. Trong lòng của bờ thành đất là những ụ súng đại liên nòng 30 li dài ngoằn hướng về phía ngoài vuông rào của thành lũy qua những lổ châu mai tối hẹp. Nhà của Phượng Uyên là một trong những căn phố nằm sát cạnh bờ đất phòng thủ của hậu cứ trung đoàn.

 

Từ bến xe Lam ở đầu chợ, Phượng Uyên chạy như bay về nhà rồi mở cổng rào ùa nhanh vào bên trong, tay gõ đập liên hồi thành cửa, miệng gọi lớn:

 

–” Ba ơi, mẹ ơi . . .Mở cửa cho con mau lên . . .Con đậu rồi đây nè! Con được vô lớp đệ thất rồi! . . .”

 

Quá nôn nóng và kích thích, Phượng Uyên vừa gọi vừa đưa tay xô mạnh cánh cửa: cánh cửa không khóa, bật mở rộng. Từ phía nhà sau, ba mẹ của Uyên đang ăn dỡ bữa. Họ quăng đũa đứng bật dậy, mắt họ sáng rực long lanh, mặt họ mừng rỡ vui tươi khi nhìn thấy đứa con gái đang đứng ngoài ngạch cửa phía trước phe phẩy tờ danh sách của những thí sinh trúng tuyển. Giọng nói của Phượng Uyên tiếp nối trong khi đôi vợ chồng trung niên đó vẫn còn há hóc vì ngạc nhiên. Phượng Uyên líu lo:

 

–” Đây nè, thấy không . . .Tên con nè, Nguyễn Phượng Uyên đậu hạng 6 đó! Phục con chưa? . . ”

 

Đứa con gái sắp tiếp tục bày tỏ thêm những lời hoan hỉ thì bất thần một tiếng nổ long trời lở đất phát ra từ trên mái nhà và liền ngay sau đó có tiếng đồ đạt vỡ rơi loảng choảng cùng với những kèo, cột, gạch, ngói ngả nghiên đổ sụp chồng chất khắp nơi. Rồi có tiếng rên la gào thét ơi ới cách chỗ Phượng Uyên chừng năm, mười mét . . .Trong cảnh hỗn man trời sập, Phượng Uyên cảm thấy mình bị cuốn xoắn trôi vào một vực thẳm đỏ ối trong một vùng hoang vắng tử địa! . . .Phượng Uyên thét lên kinh hoàng và ngất đi trong cơn mê loạn .

 

*

 

Làng Cô Nhi Long Thành

 

Từ tỉnh lỵ Biên Hòa nếu tiếp tục di chuyển theo hướng chính Bắc trên quốc lộ số 1 thì người ta sẽ đi về hai phía: một phía về các vùng cao nguyên Trung phần còn một phía nữa thì đưa tới những tỉnh cực Nam nằm sát cạnh bờ biển Đông của miền Trung cằn cỗi. Khi ra khỏi tỉnh lỵ Biên Hòa và tới một ngả rẽ trên quốc lộ số 1 thì người ta lại bắt đầu đi tới một thị trấn miền biển nổi tiếng của miền Việt Nam: đó là thị trấn Vũng Tàu mà người dân miền Nam quen gọi là Ô Cấp, tiếng gọi ngắn gọn của một cái tên mà thực dân đã đặt cho thị trấn nầy: ” Cape-Saint Jacques” .

 

Nằm giữa Biên Hòa và Vũng Tàu là quận Long Thành, một địa danh nổi tiếng với những loại trái cây thơm ngon của miền Nam như sầu riêng, chôm chôm trốc hột, nhãn nhỏ hột . .v.v . .Long Thành cũng là trạm nghỉ chân xả hơi của du khách trên đường ra Vũng Tàu; họ dừng lại ở đây để ăn cơm trưa với những món thịt rừng khoái khẩu.

 

Quận lỵ nhỏ bé nầy còn có một địa điểm rất đặc biệt và dù rằng không phải là một danh lam thắng cảnh nhưng cũng thu hút được rất nhiều du khách nhứt là những du khách theo đạo Phật: đó là Làng Cô Nhi Long Thành.

 

Làng cô nhi nầy là một doanh trại rộng lớn gồm có 5 dãy nhà tôn dài, vách gạch quét vôi, nền tráng xi măng. Mỗi dãy có thể chứa khoảng một trăm trẻ nhỏ. Các em thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ những em bé mới sinh được một vài tuần còn đỏ hoe xám xịt đến các em đã biết nói, biết đi, biết chạy hoặc những em lớn tuổi hơn đã biết làm việc để sản xuất mưu sinh hay phụ giúp chăm sóc những em bé nhỏ khác.

 

Hơn một ngàn trẻ nhỏ bơ vơ, không cha không mẹ, vô gia đình, thiếu vắng tình thương đang sống lây lất chen chúc nhau trong những dãy nhà tôn nóng bức âm u của trại từ thiện nầỵ Đa số các em đều được cắt tóc sát da đầu, chỉ còn được chừa lại một chỏm tóc nhỏ để che phủ bờ trán xanh xao gồ xương. Những bộ quần áo nâu các em khoác trên những tấm thần gầy gò khiến cho các em đều trở thành những chú tiểu sa di ở những ngôi chùa nơi thâm sơn cùng cốc.

 

Các em được nuôi nấng dạy dỗ miễn phí nhưng chỉ được ăn uống có chừng mực gần như là chỉ ăn cầm hơi để mà sống! Ở đây không có sơn hào hải vị mà chỉ có cơm gạo lức đỏ với tương chao và rau lang luộc, ngày một bữa. Thỉnh thoảng có khách hành hương tới thăm viếng thương tình bố thí cho vài cân bánh kẹo thì các em mới được chấm mút để qua cơn thiếu thốn thèm khát. Các em phải sống trong nề nếp kỷ luật của trại đặt ra và phải tập tành làm việc chứ không được ăn không ngồi rồi nhởn nha nhởn nhơ. Những em cứng đầu cứng cổ sẽ bị cô lập và nhịn đói. Những trẻ làm biếng không chịu làm việc để sản xuất sẽ không được dự phần vào những quà cáp do khách thập phương cúng tặng. Tương, chao, đậu hũ, bột mì căn, sữa đậu nành, đó là những mặt hàng sản xuất do các tăng ni cùng với các em cô nhi làm ra để hằng ngày đem bán ở các chợ hoặc mang đi bỏ mối bán sỉ cho những tiệm tạp phô. Đó là nguồn lợi tức chính thức để nuôi dưỡng cho cả trại.

 

Chính phủ Sài Gòn cũng có trợ cấp nhỏ giọt, khi có khi không vì họ nghi ngờ rằng trại cô nhi nầy là chỗ ẩn náu, dung túng cho bộ đội du kích địa phương của tổ chức MTGPMN. Họ còn cho rằng các nam tu sĩ ở trại nầy là những thành phần trá hình của đối phương nằm vùng để phục kích đánh phá các vùng lân cận của Sài Gòn.

 

Trại có một bệnh xá nằm trong dãy nhà tôn thứ nhứt, ở về phía trái của cổng vào trại. Từ con đường cái, một con đường đất đỏ được xây đắp nối theo, chạy lấn vào tới phía cổng trại. Hai bên bờ của con đường đất đỏ nầy là những lũy tre rừng và cây lồ ô– giống như cây mây nhưng rỗng ruột– dày đặc. Phía sau vòng rào của trại là những đợt rừng cây cao su ngút ngàn chạy dài mút mắt.

 

Ở cuối dãy của bệnh xá, sát gần cửa sổ nhìn ra bìa rừng cao su là một chiếc sạp tre trải chiếu cói và Phượng Uyên hiện đang ngồi trên chiếc sạp đó, lưng dựa vào bờ tường, chân phải thả thòng xuống nền xi măng còn chân trái bị bó bột dầy cộm nằm ì duỗi thẳng bất động trên sạp cùng với đôi mắt ưu tư sầu muộn! Gương mặt của em tái xanh. Tóc em chưa dài lắm và được thắt gọn thành đôi bím thả lửng lơ hai bên bờ vai.

 

Đã hơn 6 tháng qua rồi. Thời gian trôi thật chậm đối với Phượng Uyên. Cơn ác mộng vẫn còn đang lẩn quẩn trong đầu óc non dại của em tưởng chừng như nó mới xảy ra ngày hôm qua, hôm kia.

 

Khi tỉnh lại trong phòng hồi sinh của bệnh viện Chợ Rẫy, toàn thân Phượng Uyên tê rần, chân trái đau buốt thấu xương và cứng đơ trong lớp băng bột trắng xóa. Ăn uống và trị dưỡng được hai tuần lễ tại bệnh viện thì Phượng Uyên bắt đầu tỉnh trí nhưng Uyên không thể nào nhớ nỗi chuyện gì đã xảy ra cho bản thân em và ba mẹ của em.

 

Đầu tuần lễ thứ 3 tại bệnh viện thì một vị ni cô ăn mặc nâu sồng được đưa vào thăm viếng Phượng Uyên và biến cố tàn khốc ngày hôm đó, ngày Phượng Uyên thi đậu vào lớp đệ thất trường trung học công lập, đã được vị ni cô kể lại cho em nghe: ba của em chết liền tại chỗ; mẹ của em thì trút hơi thở cuối cùng trên đường chở tới bệnh viện còn Phượng Uyên thì chân trái bị gảy, thân thể, mặt mũi thì đầy thương tích vì mảnh bom đạn rơi vào nhà, không phải bom đạn của bộ đội du kích nhưng éo le thay lại là bom đạn do máy bay của quân đội đồng minh giải tỏa nhầm lẫn vào khu chợ Tân Uyên! Đây không phải là lần đầu tiên có tai nạn xảy ra như vậy nhưng sự thể đó thỉnh thoảng vẫn xảy ra vì trên thượng nguồn thuộc hữu ngạn của con sông Đồng Nai, cách chợ Tân Uyên khoảng chừng 10 cây số là một vùng dành riêng cho máy bay của Mỹ và đồng minh hướng tới đó để trút bỏ gánh nặng bom đạn dư thừa sau khi đi oanh kích các vùng tụ quân của bộ đội giải phóng trong chiến khu D, trước khi bay trở về căn cứ không quân Biên Hòa.

 

Trước khi chết, mẹ của Phượng Uyên đã trao cho người ni cô đi theo xe cứu thương một bao thơ dầy, dán kín để trao lại cho con gái nếu nó may mắn còn sống sót.

 

Nghĩ tới ba, nhớ tới mẹ, mắt Phượng Uyên lệ nhỏ tuôn trào, miệng khô mặn đắng! Đôi môi Phượng Uyên bị nghiền cứng đến rướm máu. Em cầm chiếc phong bì dầy cộm, mắt nhìn trừng trừng vào nó tưởng chừng như mình đang siết nghẹt cổ họng kẻ sát nhân đã giết chết những người thân thương của em.

 

Mấy tiếng đồng hồ sau khi người ni cô đã ra về, Phượng Uyên mới trở lại trạng thái tỉnh tuồng. Em lạnh lùng xé bao thơ: trong bao thơ có 3 tấm hình và một lá thư dài. Tấm hình thứ nhứt là hình của ba mẹ bồng Phượng Uyên, phía sau có ghi chú ” Bé Uyên được 6 tháng” ; tấm hình thứ nhì là một người đàn bà trẻ đẹp sắc sảo cũng đang bồng một bé gái với dòng chữ ghi chú “Kỷ niệm ngày đầy tháng con gái cưng của mẹ” và phía góc dưới còn có một dòng chữ khác ” Bé Uyên được một tháng khi về Tân Uyên với ba mẹ” ; tấm hình thứ ba cũng là hình của người đàn bà đó đứng cạnh một người đàn ông mặc quân phục với một dòng chữ ghi nghiêng nghiêng ” Kỷ niệm ngày anh ra đơn vị chiến đấu” .

 

Phương Uyên nhận diện được ngay ba mẹ đang bồng Phượng Uyên trong tấm hình thứ nhứt. ” Còn người đàn bà đẹp sắc sảo nầy là ai mà cũng bồng một đứa nhỏ giống hệt như mình ?” . Phượng Uyên nhíu mày suy nghĩ và tự đặt câu hỏi nhưng rồi nhún vai chịu thua, không thể hiểu nổi nội dung và ý nghĩa của những tấm hình đó. ” Còn ông sĩ quan nầy nữa! Ông ta là ai mà lại lẫn lộn trong xấp hình xưa cũ nầy?”

 

Lòng tràn đầy băn khoăn thắc mắc, tay Phượng Uyên run rẩy lần mở lá thư. Nét chữ quen thuộc thân thương của ba giống như những con kiến than đang bò quanh tròng mắt của Phượng Uyên khiến cho em cảm thấy xốn xang thương cảm và rồi chỉ trong phút chốc nước mắt em lại lã chã tuôn trào thấm ướt lá thư, làm nhoè nhẹt những giòng chữ trên trang giấy vàng úa.

 

Lá thư viết:

 

” Phượng Uyên yêu dấu của ba, mẹ,

 

” Lá thư và những tấm hình nầy cuối cùng rồi cũng đã tới tay con. Ba mẹ đã hứa với người ta là chỉ khi nào con đầy đủ trí khôn rồi thì ba mẹ mới giao trả cho con những tấm hình đó. Ba mẹ biết trước rằng khi xem những tấm hình nầy con sẽ bị hoang mang, thắc mắc. Thì đây, để ba mẹ kể cho con nghe: hình của ba mẹ thì chắc con đã nhận diện được ngay phải không? Còn hình của người đàn bà xinh đẹp kia và người đàn ông mang lon sĩ quan Cộng Hòa đứng chụp chung với người đẹp đó, họ là ai? Tại sao ba mẹ lại trao gởi cho con những tấm hình nầy? Ba mẹ muốn nhắn gởi gì cho con qua những tấm hình đó? Trả lời ngay để con khỏi nôn nóng thắc mắc: người đàn bà xinh tươi đẹp đẽ đó chính là người đã mang nặng đẻ đau, là mẹ ruột của con và đứa bé đang bồng trên tay chính là con, là bé Phượng Uyên vừa tròn một tháng tuổi. Còn người đàn ông sĩ quan mang cấp bậc chuẩn úy là ba ruột của con đứng chụp chung với mẹ con trước ngày ba con ra đi đáo nhậm đơn vị mới.

Con sẽ sẽ tự hỏi: ” tại sao lại có chuyện kỳ lạ như thế? Hai người nầy là ba mẹ của con, mà ba mẹ đây cũng là ba mẹ của con? Hồi trước ba mẹ đó ở đâu mà lại để cho ba mẹ nầy gánh vác? ”

 

” Con gái thương của ba mẹ,

 

” Chuyện rắc rối nầy đáng lẽ ra ba mẹ phải giữ lời hứa không được kể lại cho con nghe. Tuy nhiên ba mẹ tin rằng khi những tấm hình và lá thư nầy tới tay con thì con đã trưởng thành, đủ minh mẫn để nhận thức rõ rệt cội nguồn thực sự của con. Câu chuyện nầy ba mẹ chỉ kể tóm lược như sau:

 

” Mẹ ruột của con tên là Trần Kim Phượng, con gái duy nhứt của một gia đình giàu có quyền uy ở Sài Gòn còn ba ruột của con là một sinh viên nghèo rớt mồng tơi tên là Nguyễn Ngọc Uyên. Hai người nầy thương yêu nhau nhưng ông bà ngoại của con cấm đoán và tìm đủ cách để chia cắt vì vấn đề môn đăng hộ đối! Cuối cùng ba mẹ của con đành phải tự quyết định tương lai cuộc đời của họ bằng cách âm thầm đưa nhau ra quận làm hôn thú để trở thành vợ chồng một cách chính thức và hợp pháp.

 

” Danh có chánh, nhưng ngôn không có thuận vì vậy không có đưa dâu, không có đám cưới rình rang, không có tiệc tùng đãi khách, thật là buồn! Nhưng bù đắp lại thì họ đã được tròn câu thề ước.

 

” Sau đó, ba con phải vào trường võ bị sĩ quan Thủ Đức. Tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy trừ bị, ba con được bổ sung ra một đơn vị chiến đấu ở vùng hai chiến thuật trong khi mẹ con cấn thai con vừa tròn 2 tháng.

 

” Năm tháng sau đó thì có tin ba con tử trận và vì bị chấn động quá sức, mẹ con đã sinh non, thiếu ngày thiếu tháng và đứa bé gái sinh non đó là con, là cô bé Phượng Uyên của ba mẹ bây giờ đó.

 

” Lúc ấy, ba mẹ ở sát cạnh với nhà ba mẹ ruột của con trong một ngõ hẻm tại khu chợ Vườn Chuối, Sài Gòn. Hai gia đình trở nên thân thuộc khắn khít. Khi con vừa được 6 tuần thì mẹ của con bồng con qua, khóc, rồi gởi cho ba mẹ, nhờ ba mẹ coi sóc dùm vài ngày vì mẹ con phải ra Đà Nẵng sắp xếp việc làm ăn sinh sống. Rồi, kể từ ngày đó thì bặt vô âm tín, không còn nhận được tin tức gì của mẹ con nữa!

 

” Những tấm hình ba mẹ ruột của con là những vật quý báu duy nhất mà mẹ con để lại cho ba mẹ trong ngày ra đi tìm đường sống. Rồi khi con được 6 tháng, ba mẹ phải dời về làm ăn sinh sống ở quận Tân Uyên sau khi để địa chỉ mới của ba mẹ, đưa cho người chủ phố trao lại nếu mẹ con có quay về chốn cũ.

 

” Kể từ ngày đó, ở Tân Uyên, cứ mỗi 3 tháng, ba mẹ nhận được một bưu phiếu của một người không tên gởi tiền tới với lời ghi chú ngắn gọn: trợ cấp cho cháu Nguyễn Phượng Uyên.

 

” Ba mẹ không có con, lại quá nghèo nên mới đành trở về Tân Uyên là nơi chôn nhau cắt rún của ba con, trở lại nghề làm ruộng. Dù rằng con không phải là con đẻ, nhưng ba mẹ thương con như máu mủ chảy trong huyết quản của mình. Thương con quá đỗi cho nên có nhiều lúc ba mẹ muốn thủ tiêu, hủy diệt đi những bằng chứng về tông tích, gốc gác của con để được giữ con bên cạnh suốt đời nhưng rồi lại nghĩ tới hoàn cảnh thảm thương của ba mẹ ruột của con cho nên ba mẹ không thể nào thực hiện nổi ý đồ chia cắt tình mẫu tử thiêng liêng.”

 

Lá thư dài còn hơn trang giấy nhưng mắt của Phượng Uyên không còn nhìn thấy được gì nữa! Toàn thân Phượng Uyên run lẩy bẩy, tay chân như bi rũ liệt. Em cảm thấy như có một tảng đá nghìn cân đang đè bẹp thân xác khiến cho em bị đứt hơi thở từng cơn và trong phút chốc em đã rơi vào mê loạn, miệng nói lầm bầm những câu vô nghĩa như người điên đang lên cơn bệnh nặng.

 

Ở lại nhà thương thêm một tháng nữa thì người ni cô trở lại đón Phượng Uyên xuất viện và đưa em về trại cô nhi Long Thành.

 

******

 

Sáng nay Phượng Uyên ngồi nhìn xuống triền đồi tràn ngập cây cao su, lòng cảm thấy mơ mơ màng màng như kẻ mất hồn. Hồn phách của ba mẹ như còn lẩn quất đâu đây như chưa muốn rời xa đứa con yêu dấu. Từ phía xa xăm, nơi dãy rừng cao su ngút ngàn kia, bóng dáng của ba mẹ như ẩn như hiện, như đưa tay mừng đón đứa con gái thân thương của mình. Mặt hai người sáng rỡ, mắt hai người long lanh như ngày mừng đón đứa con gái thi đậu vào lớp đệ thất. Rồi như có một nguồn lực vô hình nào đó thúc giục, Phượng Uyên bất thần thòng cả đôi chân xuống nền xi măng và đứng thẳng người lên để chạy về phía cửa sổ nhưng rồi chợt như tia chớp, Phượng Uyên cảm thấy mình bị rơi tuột vào một vực hố đầy lửa đỏ nóng rực.

 

Khi đã tỉnh thần, Phượng Uyên mới biết được là mình đang té nằm sóng soài trên nền xi măng khô cứng và người ni cô đang lay quay dìu đỡ em về phía chiếc sạp với giọng nói đầy lo âu:

 

–” Chuyện gì vậy? Tại sao bị té xuống nền xi măng nặng nề như thế? Em có sao không? ”

 

Phượng Uyên gượng cười, cố nén cơn đau:

 

–” Dạ thưa em không sao hết . . .Chỉ hơi ê ẩm bên phía chân bị băng bột thôi! Xin ni cô tha lỗi vì em đã làm cho ni cô phải lo âu . . .”

 

Giọng người ni cô ôn tồn và hiền hòa:

 

–” Tạ ơn đức Phật đã phù hộ cho em, chứ nếu không thì dễ gì em được toàn vẹn với một cái té nặng nề như thế! Cẩn thận, ráng gìn giữ lấy thân, ở đây không có ai theo dõi em từng giây để cứu giúp em trong những trường hợp như vầy! . . .Em có biết hôm nay là ngày gì không?”

 

Phượng Uyên ngơ ngác nhìn người ni cô:

 

–” Dạ thưa em không biết . . .”

Hôm nay em phải trở lại nhà thương để tái khám và cắt băng bột cũng như để được hướng dẫn cách tập đi đứng cho em mau trở lại tình trạng bình thường đó.”

 

Phượng Uyên bỗng thấy rộn ràng mừng vui trong lòng! Em nghĩ thầm: ” Tốt quá rồi! mình lại có thể về thăm mộ ba mẹ và đi học trở lại . . .Nhưng, chắc là chưa đi học được vì còn phải đi Đà Nẵng để gặp mẹ trước đã . . . Mà Đà Nẵng là ở đâu vậy? Sao hồi đó tới giờ chưa nghe nói tới? Rồi biết có gặp được mẹ hay không ? Không biết mẹ bây giờ ra sao ? Trong hình thì mẹ đẹp quá, nhưng mười mấy năm nay bình bồng trôi giạt không biết mẹ có còn được đẹp như xưa chăng? . . .”

 

Tiếng nói của người ni cô kéo Phượng Uyên trở về thực tại:

 

–” Bây giờ em lo chải chuốt và ăn mặc gọn gàng một chút để chúng ta trở lại nhà thương cho kịp giờ hẹn. ”

 

Phượng Uyên mỉm cười nhìn ni cô tỏ dấu hiểu ý. CHƯƠNG 2

Chương 2

Hùng Cường Nhí

 

Một tháng sau ngày cắt băng bột, Phượng Uyên bắt đầu đi đứng trở lại bình thường mặc dù vẫn phải cặp kè một chiếc nạn cây. Không có gì trắc trở khiến cho Phượng Uyên bị chậm lại trong việc sàng lựa các loại đậu nành để cung ứng cho lò nấu tương, chao, đậu hũ của trại.

 

Ngồi cạnh bên Phượng Uyên là một đứa con trai trạc chừng 9 hoặc 10 tuổi cũng đang lựa đậu nhưng miệng thì thì hát nghêu ngao những câu vọng cổ hoài lang não nề. Thỉnh thoảng thằng nhỏ lại chêm thêm những bài tân cổ giao duyên, có lớp có lang, có đối thoại giống như diễn viên của những gánh hát cải lương nổi tiếng ở Sài Gòn.

 

Không biết thằng nhỏ tập hát từ đâu và từ bao giờ và dù rằng giọng hát chưa được thanh thoát, điêu luyện như những nghệ sĩ chuyên nghiệp nhưng khi nó hát lên thì mọi người, kể cả các vị tu hành đang ngồi sàng đậu đều êm rơ để thưởng thức.

 

Thằng nhỏ có một tật xấu khó sửa: tật chửi thề. Trong lúc nói chuyện hay vui đùa với bạn cùng lứa, thằng nhỏ thường kèm theo ba tiếng ” đù má nó” và nó chỉ tạm thời quên đi 3 tiếng tục đó vào những lúc nó trổi giọng ca tiếng hát cho mọi người nghe giải sầu.

 

Hỏi tên nó là gì thì được trả lời ” không biết!” , vì thế, theo lời thằng nhỏ kể lại, thì dân bụi đời đặt tên cho nó là ” Hùng chưởi thề” , nhưng khi vào trại tù ở Bà Rá-Phước Long, vì thấy nó biết ca hát cho nên tên chúa ngục ở đó mới đặt tên lại cho nó là ” Hùng Cường Nhí” . Thằng nhỏ rất thích cái tên mới nầy vì nó cho rằng nó là kẻ nối nghiệp của Hùng Cường, một nghệ sĩ lừng danh của nền ca kịch sân khấu miền Nam.

 

Hỏi ba má nó ở đâu thì nó nhún vai trả lời: ” Ba thì mê vợ bé bỏ thằng con thơ, còn má thì theo lính dân vệ vứt con bơ vơ bên vệ đường!” Hỏi tại sao bị vào tù, thì được thằng nhỏ nói rằng: ” Tui đi bụi đời hát dạo kiếm sống làm dơ mắt mấy thầy ba cảnh sát của ông chính phủ Sài Gòn cho nên tui bị bắt đưa đi trại tế bần ở Bà Rá một thời gian và nhờ không quậy phá trong tù cho nên được gởi về Long Thành để nuôi nấng dạy dỗ thành con người hiền lương . . .”

 

*

 

Chỉ còn hơn một tuần nữa là tới ngày lễ Vu Lan, vì thế khu chế phẩm và sản xuất tương chao trở nên nhộn nhịp bận rộn để có đủ mặt hàng cung ứng cho các chùa chiềng và khách hàng.

 

Ngừng hát một lúc, Hùng Cường Nhí đưa tay khều nhẹ vào lưng Phượng Uyên:

 

–” Chừng nào chị đi chị dắt Nhí theo với nha . . . Được không?”

 

Phượng Uyên giật mình, nhìn thằng nhỏ rồi lấm lét nhìn quanh, giọng thì thào:

 

–” Suỵt! Nói gì mà lớn quá vậy? Có phải hát tuồng đâu mà hét la cho mọi người đều nghe! Thiệt là ngu! Chuyện nầy mà hở môi thì khốn cả bầy đó! Mà đi đâu mới được chứ? Làm gì có tiền để đi xe, để ăn uống dọc đường? Không lý giả què giả câm để xin tiền người ta hoặc đi hát dạo để đắp đổi qua ngày hay sao?”

 

Thằng nhỏ nheo mắt đưa tay giả bộ bịt miệng rồi mĩm cười có vẻ thích chí:

 

–” Chị Uyên nói đúng! Chị làm gì có tiền để thực hiện ý định trốn trại! Chị thì khác, chứ còn Nhí nầy thì . . .Hì, hì . . . Nhí có tiền; ngoài ra Nhí còn có thể nhảy lên nhảy xuống các xe đò hành khách hoặc xe lửa Sài Gòn-Biên Hòa mà hát ca diễn tuồng để người ta bỏ tiền vào lon khen thưởng . . .”

 

Ngừng một lúc để lấy hơi, thằng nhỏ lại tiếp:

 

–” Nhí muốn đi đâu mà không được, muốn đi lúc nào cũng được, chỉ có cái tội là đi một mình mất vui, không có ai bầu bạn!”

 

Nghe thằng nhỏ kể lể nhưng tay của Phượng Uyên vẫn không ngừng lựa đậu:

 

–” Tiền đâu mà Nhí có? Chôm chỉa của người ta phải không?”

 

Giọng thằng nhỏ phản đối:

 

–” Ê, chị chớ có ăn nói tầm ruồng đó nha . . .Chị tưởng Nhí thuộc loại đầu trộm, đuôi cướp hay sao? Đừng hạ thấp giá trị người ta chớ! Bộ chị tưởng rằng bị đi đày Bà Rá – Phước Long là bất lương hết hay sao?”

–” Vậy chứ tiền đâu mà Nhí có? Mà dù cho có đi nữa thì cũng chỉ đủ cho Nhí ngặm kẹo hoặc ăn cà lem chứ có đâu đủ mà nuôi sống dài lâu!”

–” Tối nay đợi cho họ ngủ hết, Nhí sẽ đem tiền ra đếm cho chị coi chơi, cho bỏ cái tật khinh khi. Nhiều thì không có, nhưng để tạm cho chị và Nhí sống vài tuần lang thang đó đây thì dư sức qua cầu! Nhí bảo đảm đó . . .”

 

Rồi thằng nhỏ bổng dưng đổi giọng:

 

–” Ê, mà chị Uyên hồi xưa tới giờ có biết cầm tiền, đếm tiền hoặc xài tiền hay chưa? Chứ riêng Nhí thì xài tiền hết xẩy! Biết xài tiền từ lúc mới biết đi chập chững cho tới bây giờ! . . .”

 

Phượng Uyên nhíu mày phì cười:

 

–” Người gì đâu mà ba xạo quá sức! Biết xài tiền từ khi lững chững tập đi! Sao không nói luôn là biết đưa tiền thối lại cho người ta khi mình còn nằm ở trong bụng mẹ? Mà xài tiền phung phí kiểu hết xẩy như vậy thì có gì gọi là hay để bô bô cái miệng?”

 

–” Đâu phải Nhí khoe khoang, nói dóc, nhưng là tại vì Nhí có cảm tình với chị cho nên Nhí muốn giúp cho chị thực hiện ý định trốn trại. Ở đây buồn thấu ruột gan! Tối ngày chỉ nghe mấy ông thầy chùa, mấy bà vãi tụng kinh í a, í ô cùng tiếng chuông, tiếng mõ leng keng lóc cóc sớm hôm não nuột! Ăn thì chỉ có cơm gạo đỏ với ” thịt thầy chùa” (chao) và rau luộc chấm tương. . . Nhí đâu có vào đây để thí phát đi tu! Nhí ngán tới cổ họng rồi đó ! . . .Muốn lấy ná thun để rình bắn chim, bắn sẻ, cắt kè, kỳ nhông kiếm miếng thịt miếng thà thì sợ bị phạt vì tội sát sanh hại vật; đầu thì bị cạo trọc lóc như chú tiểu quét chùa coi không giống con giáp nào hết, chẳng còn một nhúm tóc để sắm tuồng hát xướng cho người ta coi! . . .”

 

Ngừng một chút, thằng nhỏ nói tiếp:

 

–” Tới phiên chị . . . Một mặt thì coi bộ chị còn mê (thằng nhỏ gằn mạnh chữ mê) nếp sống nâu sòng nầy lắm nhưng đồng thời thì lúc nào cũng thấy chị dợm dợm muốn bỏ trại trốn đi . . . Sao kỳ vậy? Muốn cái nào thì phải dứt khoát một thứ chứ còn cái mửng chưn trong chưn ngoài như thế thì chỉ cực tâm khổ trí mà thôi! . . .”

 

Phượng Uyên ngồi nín lặng để nghe thằng nhỏ lên mặt dạy đời. Những lời nói thẳng tuốt của nó khiến cho Phượng Uyên cảm thấy bồn chồn, trầm ngâm suy nghĩ:” Thằng nhóc con nầy coi vậy mà nó có vẻ sành đời hơn mình! Nó nói cũng có lý! Tại sao mình lại tự trói buộc ở nơi khỉ ho, cò gáy nầy? Từ lúc nhỏ xíu, thằng nhỏ nầy đã bị đời đá lên đá xuống thế mà nó vẫn sống tỉnh queo cho tới nay! Còn mình, từng tuổi nầy rồi vậy mà vẫn nhát gan, ngại khó, hết ru rú ở trong nhà nhờ sự đùm bọc che chở của ba mẹ rồi bây giờ lại yên phận nằm ì nương thân trong cái trại cô nhi buồn tẻ nầy!”

 

Những lúc ngồi buồn rầu suy tư một mình thì ý nghĩ bỏ trại trốn đi càng chỗi dậy mãnh liệt, để về Tân Uyên tìm thăm mộ phần ba mẹ, để cầu xin ba mẹ linh thiêng phù trợ cho Phượng Uyên được an lành trên bước đường đời dẫy đầy chông gai, cạm bẫy, đưa đường dẫn lối cho Phượng Uyên tìm gặp lại mẹ ruột của mình. Nhưng ý nghĩ đó chỉ thoạt tới trong phút chốc rồi tan biến đi khi Phượng Uyên rùng mình nghĩ tới con đường bôn ba trôi nổi, bơ vơ trơ trọi trên chốn chợ đời!

 

Bây giờ ý nghĩ bỏ trại trốn đi lại phừng dậy như ngọn lửa sắp tàn lụi vừa được quạt thêm gió, tưới thêm dầu! Ngọn gió đó, bình dầu đó chính là Hùng Cường Nhí, là cái thằng nhỏ vừa tráo trở vừa dễ thương kia đang ngồi sát gần Phượng Uyên giống như một con cá voi đang đưa cái lưng vững chắc của nó để đưa chiếc ghe đang lênh đênh trên mặt biển cả đầy sóng gió bão táp vào một bờ bến an lành, êm xuôi!

 

*

 

Trong chu vi của trại cô nhi Long Thành, trước khi vào dãy trại nuôi nấng các trẻ mồ côi, khách thập phưong muốn viếng thăm trại phải đi ngang qua một khu đất rộng lớn với những tàng lá rợp mát của những cây tùng, những cây bách đứng sừng sững thẳng hàng, thẳng lối. Vườn hoa đó đây khắp cùng. Trước ngưỡng tam quan, trước khi bước vào bên trong chùa là một pho tượng cao chừng 10 mét, tượng đức Phật Bà Quan Thế Âm tươi đẹp đứng trên đài sen, tay trái cầm bình lộ thủy, tay phải phất phẩy một cành liễu rủ. Cạnh đức Phật là pho tượng của thiên tướng Hồng Hài Nhi đang quỳ bái vâng phục.

 

Ngày lễ Vu Lan năm nay khách viếng thăm đến chùa khá đông. Từ tờ mờ sáng, cổng chùa đã được mở rộng. Trong chùa đèn đuốc thắp sáng choang, hương trầm nghi ngút. Chuông mõ ngân vang từng hồi bay lên không trong để thúc hối kêu gọi khách thập phương hãy kíp mau tới cúng bái đức Phật trong ngày báo hiếu nhớ ơn các đấng sinh thành dưỡng dục đã khuất. Kẻ vào người ra tấp nập và trại cô nhi trở thành một nơi đô hội để cho các nam thanh nữ tú liếc mắt đưa tình. Khách viếng thăm chùa rất đông nhưng đa số là phái nữ rồi tới những cụ bà, cụ ông. Họ ăn mặc chỉnh tề: phụ nữ thì áo dài thẳng nếp với cành hoa hồng đỏ thắm cày trên ngực. Họ quỳ bái trước Phật đài rồi ngồi xuống thành hàng lớp trên nền gạch trải chiếu lác, hiệp tiếng cùng với các sư sải niệm kinh Vu Lan theo tiếng chuông, mõ gỏ nhịp từng hồi.

 

Phượng Uyên cũng đang ngồi lẫn lộn trong số khách thập phương đang ngồi tụng kinh trước bàn Phật. Bộ đồ bà ba màu hồng lợt của Phượng Uyên tuy không đẹp nhưng sạch gọn với chiếc bông hồng nổi bật trên ngực phía bên trái. Phượng Uyên chấp tay cung kính nhưng không niệm kinh như mọi người. Kiểu chấp tay của Phượng Uyên như muốn che dấu không cho người ta thấy một gói bọc giấy nhật trình vuông vức cập sát trước ngực. Mắt của Phuợng Uyên không hướng nhìn về ngai đức Phật, đầu cuối gằm xuống để làm khuất lấp đi gương mặt tái xanh.

 

Phượng Uyên đã ngồi ở đó gần 2 tiếng đồng hồ rồi! Chung quanh Phượng Uyên, hết đợt nầy tới đợt khác, khách vãng lai quỳ lại niệm kinh rồi đi, vậy mà Phượng Uyên vẫn ngồi lì tại đó! Khi đúng Ngọ, tiếng đại đồng chung ngân lên vang dội khắp cảnh chùa khiến cho tim của Phượng Uyên như muốn ngừng đập. Lấm lét nhìn quanh thật nhanh, Phượng Uyên rón rén đứng lên rồi thụt lùi đi ra phía cổng tam quan. Khi qua khỏi ngưỡng cổng, chân tay của Phượng Uyên như bị rũ liệt không còn muốn đứng vững. Đã cố gắng hết sức để bước đi được tự nhiên nhưng phía chân trái vì không có nạn để chống đỡ cho nên bị đau nhói thấu tim gan. Mồ hôi trán bắt đầu rịn ra, thể xác đau đớn, vừa sợ, vừa lo, Phượng Uyên chán nản muốn buông trôi để quay trở lại cổng trại nhưng không hiểu sao như có một động lực vô hình nào đó cứ đẩy Phượng Uyên tiếp tục bước đều trên con lộ đất đỏ hướng ra phía con đường trải nhựa bên ngoài.

 

Trong khi tâm thần còn mãi bấn loạn vô định thì bất chợt có một bàn tay nào đó chộp lấy vạt áo của Phượng Uyên giật mạnh. Phượng Uyên điếng hồn nghẹt thở sắp khuỵu ngã ngồi xuống đất thì giọng nói của Hùng Cường Nhí thều thào trổi lên như tiếng ma trơi:

 

–” À há! . . .Bắt được tại trận rồi! . . .Chạy đâu cho khỏi, muốn trốn trại phải không? . . .”

 

Phượng Uyên không còn đủ nghị lực để giữ cho thân người mìng đứng thẳng được nữa! Hai chân Phượng Uyên mềm nhũn ra rồi ngồi bệt xuống bên lề đường. Khách hành hương tới lui nhưng chẳng ai màng để ý tới người con gái bị té ngồi xoài trên mặt lộ. Khi đã nhận diện được thằng nhỏ, giọng của Phượng Uyên uất ức, miệng hổn hển méo sệt:

–” Trời ơi! Thứ gì đâu mà ác nhơn quá vậy? Làm gì mà chụp giựt, rình bắt? Muốn la, muốn tố cáo phải không? Thì cứ việc làm đi chớ đừng có hù dọa người ta!”

 

Rồi bất thần mắt của Phượng Uyên long lên sòng sọc nhìn thằng nhỏ:

 

–” Ừ, đúng, đây bỏ trại đó, có sao không? Chú mầy muốn tố giác hả? Cứ việc làm thử coi, đây bất cần mà cũng hết sợ rồi! Chuyện của người ta ăn thua gì tới chú mầy mà lại xía vô? Chú mầy liệu hồn đó, đây không có ngán chú mầy đâu!. . .”

 

Dứt câu nói, Phượng Uyên liền đứng bật dậy rồi tiếp tục bước đi theo hướng cũ. Thằng nhỏ lẽo đẽo đi theo. Nó mặc quần tây dài, áo sơ mi tay ngắn màu trắng đổi sang màu ngà vì đã lâu không được phơi giặt. Trên đầu là một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh đậm, chân mang một đôi dép Nhật quá khổ so với đôi bàn chân của nó. Vừa đi theo, thằng nhỏ vừa léo nhéo bên tai Phượng Uyên:

 

–” Xời ơi (Trời ơi)! Từ xưa tới giờ chưa từng thấy có ai giống như vậy đa! . . .Thở (thuở) đời nào đi trốn mà quá hơn đi chợ! . . .Tay ôm, tai xách, nhìn thấy cái tướng lấm la lấm lét là bị lộ tẩy liền! Vậy mà cũng bày đặt trốn với chạy, thấy mà bắt mệt! . . .”

 

Phượng Uyên nổi nóng dừng chân, trợn mắt nhìn thằng nhỏ, giọng dữ tợn:

 

–” Thây kệ người ta! Mắc mớ gì tới chú mầy? Muốn tố giác thì cứ việc đi mà tố giác chứ làm gì mà đi theo tò tò, lầy nhầy hoài vậy? Chú mầy muốn gì?”

–” Chị nhìn lại coi, người ngợm của chị ốm yếu như cây sậy trước gió, chưn cẳng thì xiêu vẹo như cọng bún mềm, trong túi thì trống rỗng, vậy mà chị dám mạo hiểm đi một mình sao?”

 

Phượng Uyên lằm lũi tiếp bước.

 

Giọng của Hùng Cường Nhí nhỏ lại:

 

–” Chị coi vậy mà xấu bụng quá trời! Muốn đi một mình, bỏ Nhí ở lại! Cho Nhí cùng đi theo thì có mất mát gì đâu? . . .”

 

Phượng Uyên chỉ nhíu maỳ trề môi rồi quay lưng đi, bỏ ngoài tai những lời nói của thằng nhỏ, nhưng nó vẫn dây dưa từ phía sau:

 

–” Chắc chị định lết bộ về Sài Gòn phải hông (không)? Giỡn chơi hay thiệt vậy? Nếu thiệt thì . .bỏ đi Tám! Cái chân trái của Tám cà khịa cà khạo như thế đó thì tới tết công gô (Congo) Tám mới tới nơi! Mà lết tới nơi rồi thì Tám ra nghĩa địa nằm luôn vì bị chết đói chết khát dọc đường! . . .”

 

Phượng Uyên cứ thản nhiên . Thằng nhỏ chạy theo, đi song hành bên cạnh rồi lại nói, nhưng lần nầy giọng của nó nhẹ xuống:

 

–” Chị Uyên nè! Đừng có giận Nhí nữa nghe. Nhí muốn chọc phá chị chút thôi nhưng đâu ngờ khiến chị khiếp vía rồi nổi nóng! . . .Chị bỏ qua cho Nhí được hông?”

 

Phượng Uyên không thèm trả lời. Gần tới lề đường nhựa, chân của Phượng Uyên bỗng trượt vấp phải một tảng đá nằm lú dưới mặt đường. Người Phượng Uyên lảo đảo mất thăng bằng, đôi tay Phượng Uyên chới với trong khoảng không. Rồi trong khi Phượng Uyên sắp ngả nghiêng té xuống thì thằng nhỏ đã trờ tới kịp lúc để choàng đỡ vòng thân của Phượng Uyên nhưng thân hình bé bỏng của nó không đủ sức kéo Phượng Uyên trở lại tư thế cân bằng, toàn thân hình của Phượng Uyên té ngã chúi lên người thằng nhỏ. Phượng Uyên không hề hấn gì, nhưng cánh tay trái của Hùng Cường Nhí thì bị trầy xướt rướm máu!

 

Phuợng Uyên choàng tỉnh lại, đứng lên và đỡ thằng nhỏ ngồi xuông bên lề đường. Bao nhiêu nỗi hờn giận óan trách đối với thằng nhỏ phút chốc tan ra mây khói! Phượng Uyên rưng rưng nước mắt nhìn những vết trầy trụa máu me của thằng nhỏ, giọng đầy lo âu:

 

–” Trời ơi! Có sao không? Tay chân của Nhí trầy trụa hết trơn rồi! Bây giờ làm sao đây ? . . .”

 

Thằng nhỏ đau lắm! Nó đưa tay lên vuốt vuốt mấy chỗ bị chảy máu tróc da rồi rảo mắt ngó quanh mặt lộ như muốn tìm kiếm một vật gì.

 

Trong khi Phượng Uyên còn bỡ ngỡ thì nó đã đứng lên đi nhanh về phía bên kia bờ đường đất, lom khom lượm mấy cái tàn thuốc lá, quay trở lại chỗ Phượng Uyên đang đứng. Phượng Uyên trố mắt hỏi:

 

–” Bộ muốn hút thuốc hay sao mà đi lượm mót tàn thuốc?”

 

Thằng nhỏ lắc đầu:

 

–” Chị Uyên làm ơn xé mấy cái tàn thuốc lá nầy đắp lên mấy chỗ chảy máu dùm cho Nhí được không?”

 

Lời nhờ cậy của thằng nhỏ thật bất chợt nhưng nét mặt của nó lúc nầy thật bình tĩnh lạnh lùng khiến cho Phượng Uyên chỉ còn biết làm theo lời nó hướng dẫn như cái máỵ Tàn thuốc đắp tới đâu thì gương mặt của thằng nhỏ cũng nhăn theo tới đó vì quá rát buốt. Phượng Uyên nhìn nó, giọng lo âu:

 

–” Trời ơi lượm bậy, lượm bạ để bôi trét như vầy coi chừng bị làm độc cưa mất cánh tay đó! . . .Ai dạy cho Nhí băng bó theo kiểu nầy?”

 

Lần nầy mặt thằng nhỏ tươi lại. Nó cười, nét cười thông cảm và hoà giải:

 

–” Chị Uyên đừng có lo! Đâu phải đây là lần đầu tiên bị đổ máu! Như vầy mà thấm thía gì? Có lần Nhí đánh lộn với mấy thằng du côn ngoài đường, tụi nó cầm gạch liệng trúng đầu của Nhí máu phun có vòi vậy mà cái bà bán nước trà Huế ở lề đường gần chỗ đánh lộn chỉ cần lấy một cục thuốc xỉa Gò Vấp để đắp lên vết thương cho Nhí, loại thuốc lá đen dùng cho mấy bà ngoại ăn trầu đó chị có biết hông? Hơi rát một chút, nhưng máu thì ngừng tuôn ngay ! . . .Ở đây mình không có thuốc xỉa Gò Vấp thì ‘ luộm’ tàn thuốc, xài tạm cũng được vậy, không có sao đâu, chị Uyên đừng lo! . . .”

 

Phượng Uyên nhìn thằng nhỏ mà lòng thấy bồi hồi thương cảm. Chiếc mũ lưỡi trai đội trên đầu của nó quá rộng nên bị lệch méo đi. Phượng Uyên với tay sửa lại chiếc mũ cho ngay ngắn rồi hỏi:

 

–” Cái mũ nầy Nhí mua ở đâu? Nó rộng thùng thình như vầy mà cũng đội được, làm cho người ta tưởng Nhí đội nón khín của người khác. Sao hồi mua không chịu lựa cái nào cho vừa khít với đầu của Nhí?”

 

Thằng nhỏ trả lời ngay:

 

–” Cái nầy không phải là của Nhí mua nhưng là của khách tới viếng chùa ngày hôm nay đó! Họ máng dù, máng nón ở phía ngoài cửa trước khi vào để vái lạy ông Phật, nên Nhí tạm mượn để đội! . . .”

 

Phượng Uyên trợn mắt ngắt lời thằng nhỏ:

 

–” Trời đất quỷ thần thiên địa ơi! Lại chôm chỉa của người ta nữa rồi! . . .Chứng nào tật nấy hoài, tội chết! Vậy mà sao nói rằng không có nhiễm lây mấy cái thói xấu xa đó?”

 

Hùng Cường Nhí giật mạnh chiếc mũ xuống rồi đưa tay chi trỏ vào cái đầu trọc của mình:

 

–” Chị có thấy cái gì đây không? Đây là một cái đầu gáo dừa mà chỉ có những thằng nhỏ ở trại cô nhi Long Thành mới được cái diễm phúc để cho họ cạo gọt láng lưởng! . . .Với cái đầu trụi lũi như vầy mà cứ đi bơ bơ ở ngoài nầy thì còn gì để gọi là đi trốn?”

 

Có khách thập phương từ xa đang đi tới. Hùng Cường Nhí vội vã chụp chiếc mũ lên đầu trở lại rồi tiếp tục nói:

 

–” Đâu phải là chôm chỉa, mà chỉ là mượn tạm để che mắt thế gian và sự kiểm soát của trại . . .Vả lại có cái mũ đáng giá là bao mà phải bỏ công đi chôm chỉa cho bị mang tiếng? . . .”

 

–” Cái gì mà mượn tạm? Mượn mà không hỏi người ta thì sao gọi là mượn? Rồi làm cách nào để trả lại cho người ta? . . .Muốn đi theo mà cứ giữ mãi cái tật bất lương đó thì chắc là không được rồi! . . .”

 

Nghe câu nói sau cùng của Phượng Uyên, điệu bộ thằng nhỏ có vẻ quýnh quáng. Nó xuống giọng:

 

–” Thôi mà chị Uyên! Nhí đâu có muốn làm như vậy nhưng chị nghĩ lại coi, nếu không có cái mũ nầy thì làm sao mà Nhí đi thoát ra tới đây? . . .”

 

Nó yên lặng, vừa đi vừa thọc tay vào túi quần, vừa phân bua:

 

–” Ngày trước mấy tên đại ca của Nhí thường dạy cho Nhí một câu chữ nho Ngộ biến phải tòng quyền gì gì đó . . .Nhí không biết mấy tên anh chị đó muốn nói gì nhưng lần lần đuợc giải thích rằng con người ta, khi gặp lúc nguy biến khốn đốn thì phải tìm cách nào hợp với lúc đó để tự giải cứu cho mình chứ cứ khăng khăng giữ vững tư cách liêm sĩ anh hùng rơm, quân tử dởm của mình thì sẽ bị sụp hố hoặc chết không kịp ngáp! . . .”

 

Nó lại dạy đời nữa! Phượng Uyên vừa đi vừa nghe thằng nhỏ giảng thuyết, lý luận. Nó khôn và già trước tuổi. Cung cách ăn nói của nó là cung cách của những người lớn sành đời. Nó có vẻ ranh mãnh, lưu manh nhưng trong giọng nói của nó như toát ra một cái gì đó thật khác thường, thật sinh động: đó là cái nghĩa cử ruột thịt của một người em trai đối với người chị, đó là sự cảm thông của hai tâm hồn non trẻ đang bôn ba giữa chốn chợ đời đầy chông gai, bão tố.

 

sẽ sống thoi thóp trong sầu tư, trong héo hon! Thân xác của người cha bây giờ trở thành bán thân bất toại. Hồn trí của người cha trở thanh u tối mù mịt giống như bị lưu đày xuống chín tầng âm ty địa ngục.

 

Người vợ chung thủy của ông cũng thương yêu đứa con vô vàng nhưng điệu thương của bà là điệu thương con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Bà nuông chiều lo lắng cho Kim Phượng nhiều khi tới mức quá đáng mà chính ngay cả Kim Phượng cũng cảm thấy bực bội khó chịu. Lúc nào bà cũng đối xử với Kim Phượng như một đứa trẻ bé bỏng chưa rời vú mẹ.

CHƯƠNG 3

Chương 3

Hai người đàn bà lam lũ ngồi cạnh nhau trên chiếc xe lam 3 bánh đang lắc lư hướng về Tân Uyên. Dưới sàn băng ghế ngồi của họ là những bồn nhựa lớn nhỏ chứa đầy các loại cá lóc, cá trê, cá rô, tôm thẻ bạc .. . đang trườn mình nhảy lỏm bỏm trong các khung nước chật chội để nhảy ra khỏi những chiếc nắp đậy bằng tre nứa ọp ẹp. Họ là những người mang cá tôm từ Biên Hòa về bán ở chợ Tân Uyên.

 

Trời vẫn chưa có ánh nắng. Tiếng gầm rú của chiếc xe cũng không lấn áp được tiếng nói chát chúa của hai người đàn bà buôn cá bán tôm nầy. Họ bàn bạc về thời tiết, về việc làm ăn mua bán; họ nói xấu chồng, trách móc con cái, chê bai người nầy, chửi xỏ người kia và đủ thứ chuyện ba hoa xích đế! . . .Đến lúc đã cạn đề tài thì một trong hai người liếc mắt ra hiệu cho người kia ngó về phía góc bên trong, sát với tấm vách ngăng cách giữa hành khách và bác tài xế. Giọng nói của hai người đàn bà nhỏ lại:

 

–” Mèn ơi! Đi đâu mà ăn mặc kiểu cọ như vậy? Đã lâu lắm rồi nay mới thấy có người chưng diện sang trọng đặt chân tới chốn hoang vu nầy đa! ”

 

Người đàn bà kia gục gật:

 

–” Ờ hén! Đâu phải dân Tân Uyên! Chắc là vợ con gì đó của mấy ông sĩ quan trong bộ chỉ huy trung đoàn chứ gì? Mà chắc không phải đâu! Nếu là vợ của mấy ông sĩ quan thì cho vàng họ cũng chẳng có gan để đi khơi khơi như vầy trên con lộ nguy hiểm, hắc ám nầy. Kiểu đó mà gặp mấy cha nội du kích ra chận đường thì khó ăn khó nói với họ một cách êm xuôi để khỏi bị đưa vô mật khu cho đi rửa óc! . . .”

 

Đối tượng xầm xì to nhỏ của hai người bán cá là một người đàn bà trung niên trên dưới 30 tuổi. Nét mặt thanh lịch phơn phớt phấn hồng với vành môi điểm son đỏ thắm. Đôi mắt kiếng mát rộng vành hơi xếch ngược về phía cuối gọng khiến cho điệu nét của người đàn bà có vẻ hơi kiêu sa một chút. Chiếc áo sơ mi tay dài bằng vải xoa (soie) Pháp màu xanh đậm không làm khuất lấp hết đôi gò bồng đảo căn phòng đầy sinh lực. Đôi giày da cao gót màu nâu đi đôi với cái quần Jean trắng bó sát đôi mông thon gọn càng làm cho nét cân đối tươi trẻ của người đàn bà nổi bật hẳn so với đám hành khách lam lũ, luộm thuộm trên chiếc xe lam chật hẹp hôi hám nầy.

 

Người đàn bà đẹp đó là Trần Kim Phượng, người đã mang nặng đẻ đau, là mẹ ruột của Phượng Uyên.

Mười mấy năm trước đây, người đàn bà có vẻ đẹp mặn mà đó đã giao đứa con gái độc nhất của mình là Phượng Uyên cho người bạn láng giềng sát vách để ra đi kiếm sống. Kim Phượng đinh ninh rằng mình chỉ tạm thời vắng nhà độ vài tháng rồi sẽ quay trở về nhận lại đứa con máu mủ của mình nhưng định mệnh éo le đã đưa đẩy Kim Phượng vào một ngõ hẹp không lối thoát.

 

Ngày đó, Khi Kim Phượng vừa sinh bé Phượng Uyên được 2 tuần thì có một người đàn bà lạ mặt đến thăm viếng. Người đó trao cho Kim Phượng xem một tấm hình trong đó chồng của Kim Phượng mặc quân phục đứng chụp trước cổng ra vào của một đơn vị thiết giáp ở Kontum thuộc quân lực Cộng Hòa. Rồi không đợi Kim Phượng hỏi, người đàn bà tự giới thiệu là bạn rất thân của chuẩn úy Nguyễn Ngọc Uy, ba của bé Phượng Uyên. Bà ta kể lại rằng, lần cuối cùng trước khi đi hành quân, ba của bé Uyên có gởi gắm vợ con cho bà ta mà nói rằng rủi ro anh ấy có mệnh hệ nào thì bà ta làm ơn chỉ đường dẫn lối cho Kim Phượng biết cách làm ăn để tự kiếm sống, nuôi con và chính vì thế mà người đàn bà lạ mặt đó mới tới tìm thăm Kim Phượng.

 

Chồng vừa mới tử trận, con thì non ngày non tháng, thân xác thì còn yếu ớt, tâm thần vẫn còn u mê bất định vì cái chết quá đột ngột của chồng cho nên Kim Phượng chỉ biết ngồi thừ người cứng đơ để nghe người đàn bà lạ mặt kể lể. Kim Phượng bấy giờ như người đang hì hụp sắp chết đuối giữa cơn sóng gió ba đào thì người đàn bà lạ mặt không biết từ đâu bỗng xuất hiện như một cái phao thoát hiểm để cho Kim Phượng bám víu mà lội vào bờ .

 

Khi tới Đà Nẵng, Kim Phượng được đưa đi sắm sửa, ăn mặc và chải chuốt để biến thành một thiếu phụ tươi đẹp sắc sảo và sang trọng nhất của phòng trà Đêm Đông Phương ngay trung tâm thành phố Đà Nẵng.

 

Ba tuần lễ đầu tiên tại phòng trà, Kim Phượng được bà chủ – là người đàn bà lạ mặt đã tới thăm Kim Phượng trước đây – cho ngồi giữ két (cashier) thâu tiền. Khách tới phòng trà đa số là lính Mỹ và đồng minh. Tới đầu tuần lễ thứ tư thì bà chủ đưa cho Kim Phượng một bản kê khai dài hơn ba trang giấy đánh máy trong đó ghi lại tất cả những khoản chi phí về di chuyển xe cộ, mua sắm quần áo chưng diện, tiền làm tóc, làm móng tay, tiền ăn ở . . .v.v . . .và yêu cầu Kim Phượng ký tên nhận chịu các chi phí đó do bà chủ đã giúp đỡ ứng trước để trang trải.

 

Những ngày tháng kế tiếp, Kim Phượng trở thành người làm mướn không công, chỉ được nuôi ăn ngày 2 buổi còn tiền lương hằng tháng thì bị khấu trừ hết để trả nợ góp cho bà chủ. Rồi lần lần, số nợ thiếu chẳng những không giảm mà nợ mới và tiền lời cứ gia tăng chồng chất thêm vào số nợ cũ nhất là những khoản tiền chi dùng cho việc son phấn trang điểm và may mặc. Ngoài ra Kim Phượng còn phải có tiền gởi về hằng tháng để nuôi dưỡng, trợ cấp cho bé Phượng Uyên nữa!

 

Khi Kim Phượng khám phá ra phòng trà Đêm Đông Phương là một ổ mãi dâm hạng sang trá hình, chuyên cung cấp gái đẹp cho lính ngoại quốc đánh trận ở Đà Nẵng và miền Trung thì lúc đó Kim Phượng đã bị nợ nần khó gỡ để trả cho bà chủ.

 

Tại ổ mãi dâm nầy, các chiêu đải viên trẻ đẹp đều ở dưới quyền kiểm soát của một tên đàn ông trung niên cao lớn dình dàng giống như một tên võ sĩ đô vật với nước da đen sạm như người Miên lai. Giọng nói của hắn ngắn cụt và nặng trĩu, giọng nói của những tên anh chị bự trong giới giang hồ ma cô tứ chiến. Một lằn thẹo lớn chạy dài từ trán xuống bờ mặt bên trái khiến cho bộ dạng của hắn trông thật hung tợn, hầm hừ như con chó sói mặc dù lúc nào hắn cũng nhe bộ hàm răng vàng đóng bợn hôi tanh để cười cười nói nói với các em út làm việc tại phòng trà. Tên thật của hắn, không ai biết, nhưng ở phòng trà người ta gọi hắn là anh Hai Bi.

 

Hai Bi là hộ vệ riêng của bà chủ mà cũng là trùm ma cô cai quản sự đi đứng của các em chiêu đải viên của Đêm Đông Phương. Mặc dù tuổi tác của bà chủ có vẻ già gắp rưởi tuổi của Hai Bi nhưng có tiếng xầm xì rằng ban ngày thì hắn là hộ vệ của bà chủ nhưng về đêm, khi phòng trà tắt đèn đóng cửa thì Hai Bi là kẻ đấm bóp xoa nắn thiện nghệ dành riêng cho mụ tú bà nạ dòng nầy.

 

Những chuyện rắc rối về tiền bạc giữa bà chủ và các chị em chiêu đãi viên nếu không được giải quyết theo ý của mụ thì lúc đó Hai Bi sẽ đứng ra dàn xếp và cuối cùng rồi thì phần thắng cũng thuộc về phía bà chủ !

 

Khúc rẽ quan trọng của cuộc đời Kim Phượng là ngày mà tên Hai Bi lân la tới gần quầy tính tiền để nhăn răng cười mơn với Kim Phượng rồi nói:

 

–” Kim Phượng à, hôm nay anh Hai có một câu chuyện quan trọng nầy muốn nói cho em rõ: bà chủ có than vãn với anh Hai rằng lúc nầy bà chủ đang cần một món tiền lớn để trang trải nợ nần cũng như để lo lót, nộp hụi chết để người ta giả điếc làm ngơ cho mình làm ăn đó! Tất cả các em út ở đây đều cố gắng làm lụng hết sức để thanh toán mau lẹ các khoản tiền còn thiếu nợ bà chủ. Riêng số tiền mà em Kim Phượng ký nhận của bà chủ, như anh Hai được biết, cứ gia tăng đều đều . . .Với số lương ngồi két thu tiền của em hiện giờ, theo anh Hai thấy, thì em sẽ trả hoài hoài cho tới già cũng chưa hết nợ! . . .”

 

Kim Phượng lo âu nhìn tên ma cô. Hắn ít khi tỏ lời ăn nói dài dòng với các em út. Chỉ khi nào có chuyện dính líu tới tiền bạc của bà chủ thì hắn mới mở miệng. Điệu nói của hắn rất từ từ, thủng thẳng, tự nhiên nhưng Kim Phượng lại cảm thấy run sợ và ớn lạnh. Cuộc sống của Kim Phượng hiện giờ, tương lai sinh tồn của Phượng Uyên đang nằm trong tay của mụ tú bà và tên ma cô gian ác nầy! Kim Phượng chưa biết phải ăn nói làm sao thì Hai Bi lại tiếp:

 

–” Kim Phượng có biết không, đa số các em út ở đây hồi trước đều đã trải qua công việc ngồi két thâu tiền như em bây giờ nhưng rồi thì tụi nó bỏ nghề thâu tiền ít lương, mỏi lưng nầy để ra vòng ngoài chạy bàn chuốc rượu cho mấy thằng Tây thích gái đẹp, khoái làm tình! . .”

 

Ngừng một chút để dò phản ứng của Kim Phượng, Hai Bi giả bộ thâm tình nói tiếp:

 

–” Anh Hai coi Kim Phượng như ruột thịt vì vậy cho nên anh Hai mới đưa ra ý kiến như vầy: em đẹp đẽ xinh tươi quá chừng mà không biết cách làm ăn để kiếm tiền, tội gì mà cứ ngồi ru rú trong cái xó nầy để lảnh lương chết đói, uổng phí cả cuộc đời?”

 

Kim Phượng đã dư sức hiểu rõ lòng tốt của tên trùm ma cô nhưng vẫn e dè nhìn hắn để van lơn:

 

–” Anh Hai bảo Kim Phượng phải làm gì? . . .Ngoài việc ngồi thâu tiền em đâu còn có tài đức gì khác nữa đâu để tìm một việc khá hơn! . . .”

 

Hai Bi không bỏ lỡ cơ hội:

 

–” Đâu cần gì phải có tài với đức! Sắc đẹp của em là cái mỏ vàng khối mà em không biết khai thác đó thôi! . . . Trong số những tên Tây tới đây để mua vui thì có một đại úy người Úc thường hỏi thăm anh Hai về em hoài. Anh ta ra đây công tác phối hợp giống gì đó với sư đoàn kỵ binh số 1 của Mỹ và đã trở thành khách thường trực của phòng trà Đêm Đông Phương. Giới thiệu cho anh ta những em chiêu đãi viên khác thì anh ta chỉ lắc đầu không chịu mà cứ ngồi gọi rượu uống một mình để rình ngắm Kim Phượng một cách si mê! Giọng nói tiếng Anh của anh ta khó nghe hơn là giọng nói của đám lính Mỹ nhưng được cái là anh ta hiền, điềm đạm không quậy phá nhăng cụi như mấy ông yăn-ki (Yankee: chỉ các lính Mỹ). Có lần hắn đề nghị với anh Hai làm mai em cho hắn và chịu chi hơn 500 đô la một đêm, đô la xanh đó em, không phải đô la đỏ đâu nghe! Nhưng anh Hai chỉ lắc đầu từ chối mà còn ra hiệu cắt nghĩa cho hắn biết em là con nhà lành làm ăn chơn chính chứ không phải là chiêu đãi viên trá hình như các em kia. Hắn tên la David và hiện giờ đang ngồi ở chiếc bàn gần phía cửa ra vào để ngắm nhìn Kim Phượng đó! . . .”

 

Kim Phượng đưa mắt nhìn về hướng tên Hai Bi vừa nói. Mắt Kim Phượng chạm mắt David và trong khi Kim Phượng chưa kịp ngó đi chỗ khác thì David đã mỉm cười đưa tay vẫy chào thân thiện.

 

Không còn cách nào khác, Kim Phượng đành phải mỉm cười và vẫy tay chào lại trong khi giọng của tên Hai Bi vẫn rù rì bên tai:

 

–” Đó, em thấy không? người ta si mê em như điên như dại vậy mà em không biết chộp lấy cơ hội. Lương hướng của Kim Phượng hiện giờ tính ra chưa được 30 đô la một tháng, trừ tới trừ lui thì chắc gì còn dư được một đồng dính túi! Hơn nữa, bà chủ đã nói với anh Hai là không còn đủ khả năng để bao bọc và ứng trước cho Kim Phượng dài dài nữa đâu! Còn cái công việc ngồi thâu tiền nầy chắc có lẽ bà chủ cũng sẽ giao cho người em gái của bà chủ từ Tuy Hòa ra đây chừng mấy ngày nay . . .”

 

Nghe tên Hai Bi kể lể giãi bày, Kim Phượng ngồi sững sờ như kẻ mất hồn! Người quả phụ đau khổ nầy muốn la, muốn hét thật lớn để bày tỏ nỗi đau thương chất chồng của mình. Tay chân Kim Phượng muốn đập, muốn phá, muốn đá vỡ toan mọi thứ xung quanh kể cả nghiền nát cái gương mặt côn đồ đểu cán, thô bỉ của tên trùm ma cô kia. Nhưng rồi toàn thân của Kim Phượng bỗng nhiên lạnh toát và run lên bần bật, mắt đổ đom đóm và đau xốn như bị kim nhọn đâm vào .

 

Kim Phượng bỏ ghế đứng lên chao đảo như người say rượu rồi lê bước về phía một gian buồng kín phía bên trong. Khi tay của Kim Phượng vừa đặt tay lên nấm cửa buồng thì một người đàn ông ngoại quốc tóc vàng đã vội vàng đứng lên theo sự làm hiệu của tên Hai Bi chạy tới đứng sát kề bên Kim Phượng lên tiếng hỏi thăm bằng một giọng tiếng Anh lơ lớ:

 

–” Cô có sao không? Mặt mày cô sao tái xanh như vậy? Có cần đưa đi nhà thương không? . . .”

 

Kim Phượng ngước mắt nhìn người đàn ông ngoại quốc và nhận ra ngay đó là David:

 

–” Cám ơn ông David, tôi chỉ bị xây xẩm một chút!”

 

Kim Phượng chỉ thốt lên được có bấy nhiêu đó rồi ngã khuỵu xuống thềm cửa và ngay lúc đó David đã chồm người tới bế xóc Kim Phượng lên, vội vã đưa vào buồng.

 

Khi cánh cửa buồng khép kín, từ phía quày thâu tiền, tên Hai Bi đang ngồi xoa tay cười đắc ý ! . . .

 

*

 

Sau đêm hôm đó, với số tiền 500 đô la của David để lại trên đầu giường, Kim Phượng chỉ đủ trả một phần nợ cho bà chủ sau khi van nài mụ tú bà nầy cho phép giữ lại một ít tiền để gởi về cho ba mẹ nuôi của Phượng Uyên.

 

Những năm tháng kế tiếp là những đoạn đường giang hồ trầm luân, trôi nổi hết phòng trà nầy đến phòng trà khác ở Đà Nẵng, ở Qui Nhơn, Pleiku, Kontum. Cần Thơ, Vũng Tàu, Biên Hòa, Củ Chi, Long Thành, Núi Đất . . .và nhiều khi ngay ở các nơi bui rậm hay trong những căn lều lúp súp giữa chôn rừng núi xa xôi hẻo lánh theo vết chân hành quân của lính Mỹ và đồng minh. Ong bướm chiếu cố thật đông, ngày đêm dập dìu, tiền bạc trở nên khắm khá nhưng phần lớn đều lọt vào hầu bao của những mụ tú bà đầu nậu gian ác rồi còn bị cắt xén, ăn chận bởi những tên ma cô tàn bạo.

 

Thân xác dãi dầu của người mẹ góa bụa son trẻ là mạch sống cho đứa con thơ suốt mười mấy năm trường dù rằng những tấm bưu phiếu gởi tiền về Tân Uyên không bao giờ được ghi tên người biếu tặng.

 

Những tấm bưu phiếu của 8 tháng cuối cùng bị gởi trả lại nơi hộp thơ riêng của Kim Phượng với lý do địa chỉ của người nhận nay không còn tồn tại ở địa chỉ ghi trên bao thơ.

Ngày hôm nay, Kim Phượng ngồi trên chiếc xe lam ba bánh cũ kỹ lọc cọc nầy để đến Tân Uyên tìm gặp lại đứa con của mình cùng với đôi vợ chồng láng giềng cũ để đền đáp công lao của họ đã có công nuôi nấng dạy dỗ Phượng Uyên suốt bấy lâu nay.

 

Những tiếng xì xầm to nhỏ của hai người đàn bà bán cá thỉnh thoảng cũng lọt vào tai Kim Phượng nhưng Kim Phượng chẳng cần đếm xỉa, để ý tới họ trên suốt lộ trình di chuyển.Thần trí của Kim Phượng đang nhẩm ôn lại mười mấy năm đoạn trường nổi trôi, thấy cuộc đời của mình sao mà giống như cuộc đời của nàng Thúy Kiều trong tập thơ ” Tiếng Kêu Đứt Ruột Mới” của nhà đại văn hào Nguyễn Du; nhưng thân phận của Kim Phượng bi thảm hơn so với thân phận của Thúy Kiều. Thúy Kiều bán thân để cứu cha, mẹ, gia đình trong cơn suy sụp còn Kim Phượng thì phải bán thân không phải để cho riêng mình được sung sướng mà chính là để cho sự sinh tồn của đứa con bé bỏng mất cha, trong khi cha mẹ của Kim Phuợng, ông bà ngoại của Phượng Uyên, là một gia đình giàu nứt đổ vách ở Sài Gòn và Kim Phượng lại là đứa con gái độc nhứt được thừa hưởng cái gia tài đồ sộ phì nhiêu đó! Bi thảm là như vậy, bất công là như vậy, trớ trêu là như vậy, khổ đau đứt ruột đứt gan là như thế! . . .

 

Càng nghĩ tới cha mẹ thì Kim Phượng càng cảm thấy oán hận sầu tủi. Càng nghĩ tới con thì càng thêm héo hắt tâm cang, hết chuyện nầy đến chuyện khác, cứ lần lượt hiện về trong tâm não như một tập phim truyện được quay lại thứ tự lớp lang với đầy đủ hỉ, nộ, ái ố!

 

Tiếng máy xe đã ngừng nổ nhưng hai hàng nước mắt của Kim Phượng vẫn tiếp tục lăn dài trên mặt phấn. Tiếng gọi của người tài xế xe lam lôi Kim Phượng về thực tại:

 

–” Cô Hai ơi! Tới nơi rồi đó cô Hai . . .Chợ Tân Uyên là ở chỗ nầy; dãy nhà cô Hai hỏi thì ở phía trên kia một chút, gần sát bờ hào thành phòng thủ của trung đoàn 48 . . .”

 

Kim Phượng dùng khăn tay thấm vội nước mắt, gượng cười nhìn bác tài xế:

 

–” Tới rồi hả bác tài? Cám ơn bác tài đã chỉ dẫn và nhắc nhở . . .Chứ không thì tôi vẫn tiếp tục ngủ gà ngủ gật trên xe không biết tới bao lâu nữa! . . .”

 

Kim Phượng đi lần về phía dãy phố theo hướng cuả người tài xế đã chỉ. Đó là một dãy nhà nhiều căn liên tiếp cất gần nhau, nóc lợp ngói đỏ, vách tường quét vôi màu vàng, kiến trúc theo kiểu xưa. Ngay khoảng giữa của dãy phố là một đống gạch ngói đổ nát, tường vách xiêu vẹo đưng trơ cùng với những cây kèo, cây cột cháy rụi đen đúa. Đó là hai căn nhà số 5 và số 6.

Nhìn đống gạch vụn, Kim Phượng nhíu mài suy tư rồi tự nhiên Kim Phuợng lạnh mình hốt hoảng la lên thất thanh:

 

–” Trời ơi! . . .Căn nhà số 6 ! . . .Căn nhà số 6 ở đâu rồi ? . . .”

 

Kim Phượng chới với bước vội tới rồi quỳ gối xuống khom mình trên nền nhà đổ nát của căn phố số 6, dùng hai tay bới, móc điên loạn đóng gạch vụn lẫn lộn với than, đất khiến cho tro bụi bốc lên tung toé phủ lắp đầy người. Khi Kim Phượng ngừng đào xới thì đôi bàn tay thon trắng đã bi trầy xước, máu me nhuộm đỏ. Đôi mắt của Kim Phựng mở thao láo nhìn cảnh tượng đổ nát tiêu sơ, miệng mồm há hốc như người chết đứng rồi thình lình Kim Phượng đưa hai tay ôm đầu phủ phục xuống nền đất khóc rống thảm thiết ! . . .Trong cơn đau khổ khốn đốn cùng cực, Kim Phượng cảm giác như có một bàn tay gầy gò già nua đang đập nhè nhẹ lên vai mình:

 

–” Cô Hai . .Cô Hai! . . .Chuyện gì mà buồn khóc thảm thương như vậy? Cô có sao không? . . .”

 

Kim Phượng quỳ thẳng lưng lên, mặt nhòe nhoẹt nước mắt, quay lại nhìn bà cụ tóc bạc trắng xóa và chỉ thốt lên được có một câu ngắn ngủi ” bác ơi . . .bác . .” rồi chúi người tới ôm ghìi lấy bà lão lạ mặt để tiếp tục lệ trào nức nở.

 

Bà lão tóc bạc là chủ nhân của căn nhà số 7. Bà đưa Kim Phượng về nhà mình rồi kể hết sự thể về tai nạn thảm khốc đã giáng xuống trên 2 căn nhà số 5 và số 6. Căn nhà số 6 là nhà của gia đình Phượng Uyên.

 

Kim Phượng ngồi nghe mà ruột gan cồn cấu tơi bời trong khi giọng nói của bà cụ vẫn tiếp tục:

 

–” Người ta đào bới trong đống gạch vụn để lôi ra những thân hình rách nát, máu me nhầy nhụa trong đó có xác ba của cháu Uyên còn Uyên và mẹ cháu thì thương tích trầm trọng được đưa ngay vào bệnh xá của Trung Đoàn 48 để cứu cấp tạm thời trong khi chờ đợi tản thương về bệnh viện Chợ Rẫy.

 

Trên đường tản thương có một vị ni cô tháp tùng theo để trợ giúp; vị ni cô nầy là một nữ tu đem các loại tương chao . . .sản xuất từ trại cô nhi Long Thành để bỏ mối cho các hàng quán ở chợ Tân Uyên. Theo lời thuật lại của vị ni cô thì mẹ của cháu Uyên đã trút hơi thở cuối cùng trên đường chở tới bệnh viện còn cháu Uyên thì thương tích nặng lắm cho nên được đưa ngay vào phòng giải phẫu không biết sống chết ra sao. Mẹ của cháu Uyên được đưa về mai táng bên cạnh kề cận với ba của cháu và kể từ ngày đó thì không nghe tin tức gì về cháu Uyên nữa . . .”

 

Kim Phượng được bà cụ dẫn ra hai phần mộ của ba mẹ Phượng Uyên và ở đó Kim Phượng lại khóc rống thảm thương thêm một lần nữa. Bây giờ Kim Phượng mới cảm nhận được một cách sâu sắc ý nghĩa câu nói của người xưa để lại ” Nhứt cận lân, nhì cận thân” và khiến cho Kim Phượng phải suy tư : ” hai người đang nằm sâu dưới đáy mồ nầy đâu có liên hệ gì với mình đâu vậy mà tại sao họ lại âm thầm cưu mang đùm bọc cho đứa con gái của mình suốt mười mấy năm trường, trong khi đó cha mẹ ruột của mình, ông bà ngoại của con gái mình thì thế nào? Sao họ đành đoạn tai ngơ mắt nhắm với máu mủ ruột thịt?”

Kim Phượng càng cảm thấy u uất ngất trời khi nghĩ tới sinh mạng của con gái mình hiện giờ không biết sống chết ra sao. Tim gan rối như tơ vò, thần trí ngổn ngang trăm mối cùng với mối hận đời chồng chất khiến cho tiếng khóc của Kim Phượng càng trở thành thê lương đứt ruột.

 

Sau khi khấn hương bái lạy trước hai phần mộ, Kim Phượng đứng lên mở túi xách tay lấy ra một sắp tiền rồi nói:

 

” Cháu đội ơn bác đã cho biết tin tức về Phượng Uyên và đưa cháu ra đây để bái mộ ba mẹ của cháu Uyên. Cháu là . . .bạn của người đã sinh ra Phượng Uyên và cháu được cho biết là hai người xấu số đang nằm yên dưới lòng đất chỉ là những người láng giềng tốt bụng đã có công nuôi dưỡng Phượng Uyên từ bấy lâu nay . . .”

 

Trong khi bà cụ tóc bạc còn đang ngạc nhiên chưa kịp thốt lời thì Kim Phượng nói tiếp:

 

–” Đây là một ít tiền mà người bạn của cháu nhờ cháu đem lên đây, tìm gặp ba mẹ nuôi của cháu Uyên, để đền đáp ơn sâu nghĩa nặng của họ, nhưng ông trời oái oăm lại cất đi sớm những người hiền đức! Xin bác giữ lấy phần tiền nầy để xây mộ cho họ, phần còn lại bác cứ giữ lấy mà tiêu xài. Cháu chỉ xin bác thỉnh thoảng mua một ít nhang đèn, bánh trái cho vong linh những người quá cố . . .”

 

Kim Phượng dúi vào tay bà cụ một sấp giấy bạc 500 còn mới và trong khi người đàn bà già nua còn đang ngỡ ngàng thì Kim Phượng bất thần quỳ xuống phục lạy, kèm theo giọng buồn nức nở:

 

–” Xin bác nhận lời ủy thác của cháu, xin bái lạy bác để đa tạ . . .”

 

Bà cụ nước mắt cũng lưng tròng, giọng nói của bà đứt đoạn:

 

–” Trời ơi ! Cô Hai làm gì kỳ vậy? Cần gì mà phải quỳ lạy cầu khẩn thảm thương quá sức? Đứng lên, đừng làm vậy tổn thọ tổn đức cho già nầy lắm! . . .”

 

Bà lụm khụm, hớt hãi dang đôi vòng tay yếu gầy còm cõi để đỡ Kim Phượng đứng lên rồi hai người ôm chầm lấy nhau cùng khóc.

 

Trên đường về, khi vừa bước xuống xe ở ngã ba Chợ Đồn thì Kim Phượng nhìn thấy có hai đứa nhỏ, một gái khoảng 13 hoặc 14 tuổi và một trai chừng 9 hoặc 10 tuổi đang chuẩn bị lên xe lam để đi Tân Uyên. Kim Phượng nhìn trân trối cô gái nhỏ rồi nghĩ: ” Bé Uyên của mình bây giờ chắc cũng cỡ chừng cô bé hiền đẹp nầy. .” , rồi nhìn qua đứa con trai đang huýt sao bi bô; Kim Phượng nhận định: ” Chắc là 2 chị em, đứa chị thì có vẻ nhu mì, nhút nhát, còn em thì lí lắc lí lửng có vẻ như muôn lấn áp làm xếp người chị” .

 

Rồi, tự nhiên, từ phía xa, đứa con gái ngước mắt nhìn về hướng của Kim Phượng đang đứng. Bốn luồng nhởn tuyến gặp nhau, cả hai cùng sửng sốt tưởng chừng như đã quen biết nhau từ thuở tiền kiếp! Đôi mắt đó với đôi mắt nầy, cái miệng nọ với vành môi kia dù có cách biệt tuổi đời nhưng sao trông như khuôn đúc cùng chung một lò?

Khi đã ngồi gọn vào bên trong , đứa con gái lại chen mình ló đầu ra khỏi thành xe rồi mỉm cười thật hiền dịu để gật đầu chào người thiếu phụ xa lạ trong khi Kim Phượng cũng đang đứng sửNg bên kia lề đường nhìn theo hình bóng của đứa con gái chưa hề quen biết vừa thu mình vào trong lòng chiếc xe lam khuất dần trong khói bụi.

 

*

 

Vừa lững thững đi theo Phượng Uyên, Hùng Cường Nhí vừa hỏi. Nó gọi Phượng Uyên là chị Hai:

 

–” Chị Hai nè, chị có chắc là ba mẹ nuôi của chị được chôn tại nơi cái quận lỵ èo uột nầy không?”

 

Phượng Uyên liếc nhìn thằng nhỏ:

 

–” Chắc!. . .”

 

Giọng của thằng nhỏ bi quan:

 

–” Trời ơi! Mới nghe người ta nói khơi khơi mà đã bám cứng vô đó để tin để tưởng! Có gì chắc, để tin là đúng là sai? Sao chị Hai dễ tin người quá vậy?”

 

Giọng của thằng nhỏ giống như một người lớn kinh nghiệm dày dạn. Phuợng Uyên nhìn nó:

 

–” Nhí đừng có lôi thôi chất vấn bậy bạ. Cái gì biết rõ thì hãy nói, không nên đoán mò quàng xiên. Khi còn ở trại cô nhi, chính vị ni cô đã nói rõ hết sự tình cho chị biết. Không lẽ người tu hành lại đi đặt chuyện để gạt gẫm con nít sao?”

 

–” Hứ! bản thân Nhí thì chẳng có tin ai được hết, từ người trần tục cho tới luôn hết mấy ông mấy bà trốn nợ thế gian để đi tu! . . .”

 

Phượng Uyên giật mạnh tay thằng nhỏ:

 

–” Đừng có ăn nói bá láp bá xàm, đụng chạm tới những người tu hành! Người ta có làm gì đâu mà Nhí có vẻ cay cú với họ như vậy?”

 

Hùng Cường Nhí trề môi:

 

–” Hồi xưa, mấy thằng đại ca của Nhí, tụi nó nói rằng đàn ông ngày nay mà đi tu là để tránh đi lính đánh giặc còn đàn bà mà đi tu không phải là vì họ xấu không ma nào chịu lấy nhưng là một hình thức né tránh bổn phận làm vợ, trốn việc sanh nặng đẻ đau, chối bỏ bổn phân làm mẹ nuôi con cực xác. Thiếu gì người không đi tu mà họ cũng thành Phật thành thánh! . . . Có điều nói thời nói như vậy đó, nhưng để coi lần nầy bà ni cô của chị có kể lại đúng hay không? Dù sao thì cũng lên tới đây rồi cho nên cũng phải đi coi cho biết chứ chẳng lẽ lại leo lên xe trở về Biên Hòa?”

 

Đi thêm một đoạn ngắn, thằng nhỏ lại nói tiếp:

 

–” Còn chuyện nầy nữa: chị Hai có biết cái nghĩa địa chôn ba mẹ ở đâu không? Hồi nhỏ tới giờ có ra tới đó lần nào chưa? Nhí thấy bên kia bờ ruộng lố nhố có rất nhiều mồ mả xiêu vẹo khắp cùng, làm sao biết được mồ nào mả nào là của ai để mà kiếm cho ra chỗ chôn cất của ba mẹ ?”

 

Phượng Uyên chậm rãi giải thích:

 

–” Theo thói quen từ những thôn xóm ngày xưa kéo dài cho tới bây giờ thì nếu có một người thân vai vế trong gia tộc qua đời thì người nầy thường được chôn cất ở phần đất sau nhà hoặc trên những mảnh ruộng riêng của gia đình người vừa mới chết. Nếu không có ruộng có đất riêng thì đem chôn ở nghĩa địa công cộng. Ba mẹ tuy cũng có ruộng nhưng lại ở sát bìa rừng trong xa mà cũng chẳng còn ai thân thích ở đây, cho nên theo chị nghĩ thì chắc người ta đem ba mẹ ra nghĩa địa công cộng chứ ai mà chịu bỏ công đưa ba mẹ tới bià rừng xa lắc xa lơ trong đó! Mình sẽ ra nghĩa địa chứ tới mấy cái mả loạn ở phía bên kia bờ ruộng làm chi?. . .”

 

*

 

Qua khỏi vành đai phòng thủ của trung đoàn 48 khoảng trăm mét là một khu đất rộng dùng làm sân đánh quần vợt cho các sĩ quan của bộ chỉ huy trung đoàn. Sân nầy đã vắng bóng đấu thủ kể từ khi mấy ông du kích lén đặt một quả mìn định hướng clay-mo thổi vào sân banh nhưng rất may quả mìn lại nổ ngược ra ngoài phía mặt lộ vì mấy ông du kích đặt lộn hướng. Kể từ ngày đó sân banh vắng bóng người chơi.

 

Từ sân đánh quần vợt nầy nếu đi sâu vô thêm một chút nữa thì người ta sẽ vào một khoảnh vườn trồng cây ăn trái rộng lớn mà đa số là những cây bưởi thơm ngon nổi tiếng của đất Biên Hoà: đó là vườn bưởi của chủ nhân hảng kem đánh răng hiệu Perlon. Ở phía trái của vườn bưởi nầy là khu nghĩa địa của quận lỵ Tân Uyên.

 

Mồ mả ở đây đa số là mộ đất với cỏ gai hoang dại mọc đầy cùng với các bia mộc dày dạng gió sương, ngiêng ngửa, xiêu vẹo theo ngày tháng qua nhanh. Càng đi sâu vào phía trong thì những phần mộ mới càng nhiều với màu đất sìn láng ướt và sần nứt thành từng ô nhiều cạnh đen mốc. Những ngôi mộ mới nầy đa số là của những tân binh quân dịch được huấn luyện câp tốc, thiếu kinh nghiệm trận mạc, bị chết trận hoặc bị phục kích, được mang về chôn ở đây trước khi thân nhân của họ được thông báo về cái chết của con em mình!

 

Gần lề đường đất băng ngang qua nghĩa địa, lẫn lộn với nhiều ngôi mộ cũ là hai ngôi mộ mới đắp của ba mẹ Phượng Uyên với khói hương còn đang cháy dang dở cắm đầy quanh mộ. Hai bó hoa tươi đặt kề cạnh dưới chân hai mộ bia bằng cây dầu thếp sơn đỏ tên tuổi của những người quá cố.

 

Phượng Uyên không khóc rống hay lăn lóc thảm thương mà chỉ đứng nhìn sửng hai ngôi mộ. Vành môi dưới của đứa con gái bị nghiến cứng giữa hai hàm răng đến rướm máu để đè nén tiếng bật khóc và dằn xuống những nỗi u uất đang trào ra từ bên trong lòng ngực gầy nhom giống như những đợt sóng cồn ngoài biển cả.

 

Bỏ mặc cho Phượng Uyên đứng đó để ấm ức suy tư, Hùng Cường Nhí đi lững thững vòng quanh hai gò mả để quan sát một hồi lâu rồi dừng lại trước hai tấm mộ bia, gập người lỏm bỏm đánh vần những hàng chữ màu đỏ tía, rồi lại tiếp tục đi vòng vòng, vừa đi vừa gật gù như đang ngĩ ngợi suy tính một điều gì. Lâu lâu nó lại cúi người xuống nhổ bỏ những cụm cỏ dại mọc tràn đầy trên hai phần mộ. Rồi nó bỏ mặc Phương Uyên ở đó một mình, quay lưng bước thật nhanh ra khỏi nghĩa địa. Gần hai mươi phút sau đó, trong khi Phượng Uyên đang lum khum nhổ cỏ dọn sạch cho 2 ngôi mộ thì thằng nhỏ đã quay trở lại mang theo hoa quả, nhang đèn, bánh trái, tay xách, tay mang cùng với một con gà hấp được gói ghém thật trang trọng trong tờ giấy kiến màu đỏ trong suốt. Tờ báo cũ cặp theo nách được trải ra nơi khoảng đất trống giữa hai ngôi mộ để bày biện các lễ vật dâng cúng.

 

Khi thấy Phượng Uyên đang trố mắt nhìn, thằng nhỏ lên tiếng ngay:

 

–” Ê, cái nầy là mua trả tiền đàng hoàng đó nha, không phải chôm chỉa đâu mà nhìn người ta cái kiểu đó! Làm điếm bốn phương thì cũng phải để một phương mà sống chứ không phải bùa xua tứ phía, không còn biết phải quấy gì hết như loài cồn trùng sút sanh . . . Đối với ba cái chuyện cúng kiến nầy nếu đi chôm chỉa thì họ sẽ hiện hồn về bẻ quẹo cái bản họng của Nhí ra phía đàng sau, bắt đi thụt lùi chứ không còn được thong dong đi tới được nữa! Không điên gì mà làm tầm bậy tầm bạ như vậy đâu! . . .”

 

Lần nầy, nhìn thấy nét mặt thành khẩn của thằng nhỏ, Phượng Uyên biết rằng nó nói thật nhưng không đầy một phút sau đó, thằng nhỏ lại làm cho Phượng Uyên chưng hửng khi nghe nó nói tiếp:

 

–” Chị Hai có biết hôn, sẵn một công mình làm hai việc: con gà hấp xì dầu đó, bánh trái đó, sau khi cúng xong, tụi mình làm một chầu cho sướng cái miệng vì đã lâu lắm rồi tụi mình đâu có được hưởng những của ngon như vầy! Từ sáng sớm tới giờ chỉ lo né tránh lẩn lút để thoát thân ra khỏi cái chốn hắc ám kia mà quên cả ăn uống cho nên bây giờ Nhí thấy cồn cào trong bụng lắm lắm! Mới vừa rồi, trên đường trở lại đây, Nhí thò tay tính bẻ một cái đùi gà ăn trước nhưng trời xui đất khiến cho Nhí ngừng tay kịp thời chứ nếu không thì con gà nầy chỉ còn có một cái đùi, không đủ để chia đồng đều cho ba mẹ của chị! . . .”

 

Thằng nhỏ đốt một bó nhang, xẻ làm đôi, trao cho Phượng Uyên phân nửa, rồi vừa đi cặm nhang quanh mộ, vừa lầm bầm:

 

–” Mấy ông bà nằm ở đây vậy mà sướng! Cứ hết người nầy lại tới người khác thay phiên nhau đem thịt thà bánh trái tới cúng vái đều đều ! . . .”

 

Phượng Uyên nhíu mài cắt ngang lời thằng nhỏ:

 

–” Lại bắt đầu nói bá láp bá xàm nữa rồi! Nhí muốn sướng cái kiểu đó lắm phải không? Dễ quá mà! Cắn cái lưỡi một phát là xong, chôn ngay tại chỗ, cúng liền tức khắc, thịt thà, bánh trái ê hề đang có sẵn! . . .”

 

Hùng Nhí la lên, giọng phản đối:

 

–” Ê, đừng có giởn chơi trù ẻo người ta nha, thằng nầy còn trẻ chưa muốn đi bán muối quá sớm như hai ông bà nầy đâu . . .Mà bộ Nhí nói không đúng sao? Chị thấy đó, trước khi tụi mình tới đây thì đã có người mang nhang đèn lễ vật để cúng kiến cho họ rồi, bây giờ lại tới phiên tụi mình lại tiếp tục cúng nữa. Cho họ ăn chết luôn ! . . .”

 

*

 

Nghe thằng nhỏ nói, Phượng Uyên mới chợt nhớ ra rồi lằm bằm một mình: ” Mà nghĩ ra thì cũng hơi lạ! Ba mẹ ở Tân Uyên đâu có ai là thân bằng quyến thuộc nhưng sao lại lửa nhang khắp đầy? Hay là bà con quanh xóm thương tình nên mới đem khói hương ra đây dâng cúng?”

 

Nghĩ ngợi như vậy, Phượng Uyên nghiêm sắc mặt nói với Hùng Cường Nhí:

 

–” Nhí coi, bà con quanh xóm ở đây dù không có liên hệ ruột thịt với ba mẹ của chị nhưng họ vẫn có thành tâm cúng bái để hương hồn của những người bị chết oan ức được ngậm cười nơi chín suối . . .Huống hồ chị đây là con gái độc nhất của ba mẹ thì việc thắp nhang, đốt đèn là một bổn phận bắt buộc. Dù không có tiền để sắm sửa lễ vật, mâm cao cỗ đầy, nhưng sự thương tiếc chân tình, thành khẩn, kính bái của chị chắc ba mẹ cũng thấu hiểu mà vui lòng hả dạ! Còn Nhí, Nhí mang đủ thứ tới rồi lại ăn nói bắt quàng hồ đồ như vậy thì vong linh của những người đang nằm đó đâu có thèm nhận hưởng! . . .”

 

Thằng nhỏ nhăn mặt khổ sở:

 

–” Chị Hai lại nói mắt mỏ, xỏ xiên nữa rồi! Những điều chị nói thì đứa con nít chưa sinh ra cũng phải hiểu huống hồ là đứa đã có cái đầu lớn tần ngần như Nhí! Nếu Nhí muốn ăn thì cứ việc ra chợ mà ăn chứ tội gì phải bày đặt, bày điều, khệ nệ bưng lên bưng xuống như vầy? Nhí vì chị, cho nên ba mẹ của chị Nhí cũng coi như ba mẹ của Nhí chứ đâu phải là hình thức giả bộ hời hợt bên ngoài để lấy lòng chị hoặc dể hối lộ hai ông bà nầy để Nhí không bị họ vặn họng, bẻ cổ? Lòng thành của Nhí có hay không thì ba mẹ dư sức biết chứ có sá gì ba món đồ lễ vật lỉnh kỉnh nầy ?”

 

Nói xong thằng nhỏ cầm bó nhang đang cháy tỏa hương khói nghi ngút, đứng giữa hai gò mả, mặt hướng về phía mộ bia, dáng điệu thành khẩn cuối đầu xá lạy liên hồi còn miệng thì lăm răm khấn khứa. Không biết thằng nhỏ cầu khẩn điều gì nhưng Phượng Uyên chỉ nghe được vài ba câu sau cùng:

 

–” . . .Xin ông bà nhận hưởng các món đồ cúng nầy trước rồi mới tới phiên tụi cháu được phép ăn ké phần. Vong hồn của ông bà có linh thiêng xin chứng giám và phù hộ cho tụi cháu làm ăn khắm khá thì tụi cháu sẽ trở lại đây để cúng quảy tiếp . . .”

 

Khấn xong, thằng nhỏ cầm bó nhang đi cắm quanh hai phần mộ rồi quay sang Phượng Uyên, nó phân bua:

 

–” Đó, chị Hai thấy chưa? Đâu phải Nhí không biết phép tắc. Cúng tế là để cho những người chết hưởng trước, và mặc dù bụng của người còn sống đang đói thấy bà thấy tổ, cũng phải đợi hết một tuần nhang đèn rồi mới được nhào vô mà ăn ké . . .Không lẽ cúng xong rồi bỏ đó để người khác khơi khơi đi ngang qua đây hưởng hết hay sao ?”

 

Nghe Hùng Cường Nhí lý luận, Phượng Uyên chỉ còn biết lắc đầu nín thinh rồi tiếp tục khấn vái.

 

CHƯƠNG 4

Chương 4

Đốc Phủ Sứ Trần Kim Quy

 

Nhà của ông bà đốc phủ sứ Trần Kim Quy (đây là một tước vị quan lại cao cấp của triều đình nhà Nguyễn ở miền Nam Việt Nam duới thời Pháp thuộc) là một kiểu dinh thự 2 tầng tọa lạc trên một thửa đất rộng hơn một ngàn năm trăm thước vuông tại góc ngả tư của hai con đường Tú Xương-Bà Huyện Thanh Quan thuộc quận 1 thành phố Sài Gòn.

Mặt tiền của dinh thự đồ sộ nầy được xây cất, trang hoàng theo kiểu các dinh thự thời La Mã ở Ý Đại Lợi, gồm có 4 cột trụ tròn, cao lớn bằng đá hoa cương chạm trỗ tinh vi ở mặt tiền. Hai cánh cửa cổng song sắt cũng cao lớn đồ sộ, đủ rộng cho một chiếc xe chở hàng loại 10 bánh có thể lái thẳng vào sâu bên trong sân để dừng lại ngay trước cửa chính đi vào dinh thự sau khi chạy quanh trên một con đường hình vòng cung trải nhựa hắc ín. Con đường nầy ôm vòng một bãi sân cỏ xanh được cắt tỉa, chăm sóc, vung trồng khá cẩn thận.

 

Dọc theo hai bên con đường hình vòng cung là những cây thông, với những cành lá xiên ngang đối xứng từ gốc lên tới ngọn, giống như những mũi tên nhọn hướng thẳng lên vòm trời bao la mà nếu từ trên cao nhìn xuống, thì những hàng cây thông nầy đứng thẳng tắp đối diện nhau giống như các tên lính hầu đội nón hình chóp đang đứng dàn hai bên đường để chào kính, nghênh tiếp các triều thần đang tiến vào cung vua.

 

Khi nhận chức cai trị 3 tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Bạc Liêu thì bà đốc phủ sứ hạ sinh Trần Kim Phượng và toà dinh thự nầy được sửa sang chưng dọn lại để cho xứng đáng với tước vị Tổng đốc liên tam tỉnh của ông đốc phủ sứ.

 

Tất cả bàn ghế, tủ rượu tại gian phòng khách rộng thênh thang đều bằng loại gỗ hồng cẩm cẩn xà cừ cùng với những bộ tranh sơn mài đắc tiền treo quanh các bức tường bọc vải gấm Thượng Hải. Hai bộ đèn treo, kiểu hạt thủy tinh hình tròn liên kết với những hạt thủy tinh hình hạt quả trám, tỏa rọi ánh sáng lung linh khắp nơi khi có những cuộc tiếp tân, tiệc tùng, khiến cho khách khứa tưởng như mình đang ở trong một cung điện vua chúa nào đó vào thời phong kiến xa xưa.

 

Bộ bàn ăn dài bệ vệ, đủ chổ để đặt cho 12 ghế ngồi bọc nhung êm ái. Trên sàn nhà là bộ thảm hiếm có nhập cảng từ xứ Ba Tư vùng Trung Đông. Sát cạnh phòng ăn là phòng khách cũng rộng thênh thang, cũng được chưng dọn hết sức cung cách khiến cho người dân bình thường phải rụt rè e ngại để bước vào. Đối diện phòng khách là thư phòng của ông đốc phủ sứ với những ngăn kệ đầy ngật các loại sách quý được đóng bìa da gáy mạ chữ vàng óng ánh. Cạnh thư phòng là phòng ngủ dành riêng cho khách quý hoặc thân nhân tá túc tạm thời trong suốt thời gian thăm viếng gia đình ông bà đốc phủ sứ.

 

Tầng trên của dinh thự là 2 gian buồng ngủ rộng lớn, mỗi gian đều có nhà tắm, phòng vệ sinh riêng. Phía trái loà phòng của Kim Phượng với phần bao lơn bên ngoài xoay về hướng mặt đường Bà Huyện Thanh Quan. Phòng của ông bà đốc phủ sứ thì bao lơn xoay về hướng cổng đi vào dinh thự ở phía đường Tú Xương.

 

Phía sau dinh thự là một dãy nhà trệt ba căn liền sát nhau: một căn dùng làm nhà bếp, một căn là nhà kho và căn bìa cuối dãy là nơi trú ngụ của người quản gia trung thành mà cũng là người đầu bếp lâu đời của gia đình ông bà đốc phủ sứ.

 

*

 

Kể từ ngày Kim Phượng bỏ nhà ra đi, ông Trần Kim Quy trở thành ít nói. Ông là người theo Tây học nhưng nề nếp nho phong bao nhiêu đời của dòng họ gia tộc ông bắt đầu cố gắng xây dựng lại kể từ khi ông đỗ đạt cao sang, theo thói thường phú quý sinh lễ nghĩa! Ngày trước, ông không màng tới gia phong, tự ý bỏ gia đình để sống theo ý riêng của mình. Bây giờ thì lại khác.

 

Bà đốc phủ sứ thì đã nhiều lần mang nặng đẻ đau nhưng lần nào cũng bị xẩy thai cho nên rốt cuộc rồi chỉ có Kim Phượng là đứa con độc nhất của hai ông bà. Vì vậy bà rất cưng yêu nuông chìu, không khi nào muốn để cho đứa con của mình xa rời khỏi gia đình. Bà nhất định, khi Kim Phượng có chồng thì chồng Kim Phượng phải về đây ở rể. Rồi Kim Phượng tự ý kết hôn, bà đã buồn tũi khóc hết nước mắt, phần thì giận con ” ngu dại” , một sự ngu dại theo ý bà nghĩ, phần thì tức giận ông đốc phủ sứ quá khắt khe khiến cho đứa con gái vàng ngọc của bà bỏ nhà ra đi biệt tâm biệt tích và kể từ ngày đó bà đăm ra cau có, dằn xéo, xiên xỏ ông đốc phủ sứ đủ điều.

 

Nếu để lên bàn cân thì tình thương của ông dành cho Kim Phượng còn nặng gắp mấy lần hơn là tình mẹ thương con của bà. Ông cũng đau khổ, nhớ thương, một nỗi đau thương dằng dặc, và âm ỉ khôn nguôi từ phía bên trong tâm hồn, liên miên ròng rã suốt mười mấy năm trường khiến cho ông già hẳn đi kèm với mái tóc bạc trắng xóa.

 

Giận đứa con vì thấy nó quá nông nổi, bộp chộp, không chịu suy xét cặn kẽ trước khi thực hiện một quyết định sống chết cho cả cuộc đời của nó nhưng thỉnh thoảng ông lại mỉm cười một mình và nhớ tới nó nhiều hơn vì Kim Phượng có một nét đặc biệt giống ông như khuôn đúc: khi đã yêu thì chỉ biết có tình yêu còn mọi sự khác trên đời đều trở thành vô nghĩa kể cả tiền tài, danh vọng và nề nếp gia phong!

 

Ngày xưa lúc còn trẻ đang đi học, ông yêu thương và đeo đuổi bà đốc phủ sứ một cách mù quáng, như đỉa đói, không màng tới sự ngăn cắm, đe dọa của gia đình đến mức bị gia đình từ bỏ, truất quyền thừa hưởng di sản ruộng đất cò bay thẳng cánh ở Bạc Liêu. Nhưng rồi ông đã làm nên sự nghiệp bằng hai bàn tay trắng với sự yêu thương chung tình của bà đốc phủ sứ từ thuở hàn vi. Cuối cùng, phần di sản phì nhiêu của gia đình cũng trở về tay của ông vì tất cả những chi họ khác, dù họ đã tìm đủ cách giành giựt, cũng không đủ điều kiện pháp định để lãnh phần di sản khổng lồ đó.

 

Ông cảm thấy tức tối vì bị đứa con gái cứng đầu, ngang bướng, cố lì, không chịu xuống nước sau khi nó đã tự quyền lựa chọn con đường hạnh phúc của nó. Hai ông bà đã bị nó lờ đi không được mời dự lễ thành hôn ở tòa đô chính Sài Gòn và sau đó chúng nó lại biến mất bặt vô âm tín, không thèm về thăm viếng để xin tạ tội. Ông mắng thầm:” Thứ gì đâu mà ngu quá trời! Có cha mẹ nào mà không tha thứ cho đứa con hư đốn của mình khi nó biết lỗi trở về?”

 

Phải nói rằng quyền thế của ông từ xưa tới bây giờ chưa có ai dám bất tuân hoặc không quy phục vậy mà nó dám lớn gan lớn mật kình chống! Ông cảm thấy bao nhiêu uy quyền, thế lực của mình như bị sụp đổ. Tự ái trong con người cao ngạo của ông bị xúc phạm, thách thức.

 

Ông dư sức biết rằng trong những ngày tháng kế tiếp, đứa con gái lì lợm của ông sẽ bị gian nan khốn đốn, thiếu hụt mọi bề vì lấy phải thằng chồng nghèo kiết xác. Vậy mà nó không thèm hé môi xin xỏ hoặc để lộ tung tích hay địa chỉ để ông có thể tự động chu cấp giúp đở vợ chồng nó, không cần nó xin. Đáng lẽ tự ái của người cha uy quyền phải lớn hơn tự ái của đứa con ngỗ ngáo nhưng rốt cuộc rồi thì người cha phải chịu nhường nhịn, chịu thua vì ông biết rằng tính khí ngỗ nghịch đó, dòng máu nổi loạn đó, cùng với cung cách xử thế của nó có khác gì con người của ông ngày xưa đâu: nghèo chết bỏ, thà cắn răng chịu chết chứ chẳng thèm kêu nài vang xin. Kim Phượng là một nửa phần hình hài của ông cho nên khi phân nửa phần hình hài đó bứt rời ra thì nửa phần còn lại sẽ sống thoi thóp trong sầu tư, trong héo hon! Thân xác của người cha bây giờ trở thành bán thân bất toại. Hồn trí của người cha trở thanh u tối mù mịt giống như bị lưu đày xuống chín tầng âm ty địa ngục.

 

Người vợ chung thủy của ông cũng thương yêu đứa con vô vàng nhưng điệu thương của bà là điệu thương con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Bà nuông chiều lo lắng cho Kim Phượng nhiều khi tới mức quá đáng mà chính ngay cả Kim Phượng cũng cảm thấy bực bội khó chịu. Lúc nào bà cũng đối xử với Kim Phượng như một đứa trẻ bé bỏng chưa rời vú mẹ.

 

Bà thương con một cách mù quáng, đến độ khi nó phải cũng bênh, nó trật cũng bênh. Tấm lòng của bà giống như con gà mẹ cố gắng dan đôi cánh già nua chật hẹp của mình để níu kéo, để tiếp tục được quyền ấp ủ, che chở cho đàn gà con đã đủ lông đủ cánh đang muốn tự do bay nhảy kiếm sống một mình. Ngày còn trẻ bà rất trầm lặng nhưng bây giờ lớn tuổi, bà lại bắt đầu nói nhiều, phải cũng nói, trật cũng nói, đụng đâu nói đó và khi nói thì dài dòng, liên tu bất tận. Bà hay rầy la Kim Phượng nhưng khi thấy đứa con gái xìu mặt thì bà lại xuống nước dỗ dành và vì thế, dù Kim Phượng có thương và kính trọng bà thật nhiều nhưng sợ bà thì không. Trái lại, ông đốc phủ sứ tuy ít nói, ít rầy la nhưng mỗi khi ông mở miệng thì Kim Phượng cảm thấy nhức đầu vì những lời phê phán ngắn gọn, uy nghiêm của ông! Kim Phượng vừa ghét mà lại vừa thương ông đốc phủ sứ, ” người gì đâu mà khó với con cái quá trời! Có lúc thấy thương vô cùng mà cũng có lúc thấy tức quá sức, chịu hết muốn nổi! . . .”

 

Phải rồi, ông khó quá trời vậy mà Kim Phượng muốn gì được nấy, muốn giao du bạn bè gái trai hạng nào cũng được. Mà cũng vì khó quá trời cho nên ông phải ngậm đắng nuốt cay quay mặt lơ đi để cho Kim Phượng tự ý quyết định lấy cuộc sống lứa đôi của mình!

 

Ông đã gởi đăng trên tất cả các mặt báo hằng ngày, báo hằng tuần, báo hằng tháng để nhắn tin liên tục cho Kim Phượng, để mời gọi hai vợ chồng Kim Phượng trở về. Ông thuê mướn người đi tứ phía, khắp nơi để dò la tông tích của đứa con nhưng rồi sự mong ngóng của ông tàn rụi lần theo năm tháng để cho những vết nhăn trên trán của ông càng lúc càng sâu đậm thêm, để cho nụ cười của người cha càng ngày càng héo hắt ưu tư, để cho ông ăn ít đi, ngủ ít đi nhưng lại bắt phải nhớ thương nhiều hơn!

 

Nửa đêm ông thường thức giấc, tưởng chừng như đứa con hoang đàng đã trở về đang đứng ngoài kia chờ ông ra mở cổng. Ông chưa già lắm nhưng tóc của ông đã bạc phơ kể từ ngày Kim Phượng vắng xa! Ông dư sức biết Kim Phượng sẽ nhớ nhà, nhớ bà đốc phủ sứ nhiều hơn là nhớ ông vì nó đang giận, đang ghét ông nhưng ông cũng biết rằng trong lòng , trong con tim của nó, hình ảnh của ông nó đang dấu kỹ để dùng làm mẫu mực cho cuộc sống tình cảm riêng tư của nó!

 

Trong bản di chúc, ông bà để tài sản hết cho Kim Phượng và các đứa cháu ngoại tương lai của hai ông bà, chỉ để lại một phần dưỡng già và lo phần hậu sự. Phần lớn di sản để lại cho Kim Phượng đã được ông bà bỏ vào một trương mục ngân hàng định kỳ có tiền lời, còn một phần thì dùng trong việc đầu tư mua bán nhà đất các vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và các vùng phụ cận.

 

Khi chồng bị tử thương, Kim Phượng tự ái, không cho ông bà biết . Khi sinh bé Phượng Uyên, Kim Phượng cũng không thèm bồng con trở về mà chỉ gởi đến cho ông bà đốc phủ sứ một tấm hình của bé Phượng Uyên với dòng chữ ghi chú ” Nguyễn Phượng Uyên, cháu ngoại của ông bà Trần Kim Quy” .

 

Nhận được tấm hình của cháu ngoại, hai ông bà vừa mừng, vừa tủi, vừa khóc, vừa giận: đôi mắt đó, cái miệng đó lột khuôn với Kim Phượng hồi còn nhỏ. Còn hình của mẹ nó, của ba nó sao không thấy? Ông bà lại lính quýnh đăng báo, nhắn tin, lại mướn thêm người đông hơn để đi dò la xem tấm hình đó từ đâu gởi tới và, tấm hình quý báu đó đã được rọi lớn, đóng khung, lộng kiến treo nơi phòng khách để ngày ngày sáng tối ông ngắm, bà nhìn mà thương nhớ, mà u hoài, mà chờ trông!

 

Mười mấy năm qua rồi! Trong chu vi tòa dinh thự của ông bà đốc phủ sứ đã có sự đổi mới: khoảng đất phía sau, ở phía bên trái đã xây thêm một biệt thự khá rộng dành riêng cho người quản gia lâu đời, trung thành của ông bà.

 

Sống chung với người quản gia trong ngôi biệt thự đó là một người đàn ông trẻ tuổi khác: đó là luật sư Trần Thanh Bá, con trai duy nhất của người quản gia, hiện là giám đốc công ty địa ốc Quy Phượng do ông đốc phủ sứ bỏ tiền ra đầu tư.

 

Trần Thanh Bá là người bạn duy nhứt của Kim Phượng thời ấu thơ bên trong khuông rào kín cổng cao tường của tòa dinh thự đồ sộ, cách biệt với nếp sống ồ ạt xô bồ bên ngoài. Cận kề nhau từ thuở nhỏ, cho nên khi lớn lên người con trai nầy đã thầm thương trộm nhớ đứa con gái đẹp đẽ xinh tươi của ông bà chủ nhưng tự biết thân phận ” tôi tớ” của cha con mình cho nên Trần Thanh Bá chỉ còn biết ôm ấp mối tình câm và để hết tâm trí vào chuyện học hành.

 

Ông bà đốc phủ sứ coi người quản gia như người thân ruột thịt bởi vì, khi ông bỏ gia đình đi theo tiếng gọi của trái tim, về sống hàn vi với người thương, thì người quản gia của gia đình giàu sang vọng tộc đó cũng từ bỏ vai trò của mình để đi theo hầu hạ, chia ngọt xẻ bùi, sông chết với ông bà đốc phủ sứ. Có những lúc chật vật, túng cùng, chính người quản gia nầy lại là kẻ đi làm thuê, vác mướn kiếm tiền mua gạo, mua mắm để cho ba người sống lây lất qua ngày!

 

Ngày nay, ông bà đốc phủ sứ coi Trần Thanh Bá như là con của mình, lằn ranh chủ tớ không còn nữa. Ông bà đã lo lắng, chăm sóc và chu cấp cho Trần Thanh Bá ăn học. Ngày Kim Phượng bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi của tình yêu, giống như ông ngày xưa, cũng chính là ngày mà Trần Thanh Bá bước vào ngưỡng cửa tập sự cho tương lai nghề nghiệp luật sư của mình .

 

Và để ăn mừng Trần Thanh Bá thành công trên bưóc đường học vấn và sự nghiệp, mà cũng là để đền đáp công lao phục dịch của người quản gia già nua trung hậu, ông đốc phủ sứ đã tặng dữ một phần vốn đầu tư của mình để cho cha con người quản gia có được 1/3 cổ phần trong công ty địa ốc Quy Phượng trong đó ông dốc phủ sứ là chủ tịch công ty còn Trần Thanh Bá là giám đốc điều hành.

 

Ngày nay, phía tay phải gần cổng ra vào dinh thự là một cao ốc hai tầng khang trang được xây cất hướng ra mặt đường bà Huyện Thanh Quan: 1/2 cao ốc nầy dùng làm văn phòng luật sư tòa thượng thẩm Trần Thanh Bá còn 1/2 kia là địa chỉ của công ty địa ốc Quy Phượng.

 

Ròng rã mười mấy năm nay, do sự ủy thác của ông bà đốc phủ sứ, Trần Thanh Bá cũng đã bôn ba, lặn lội khắp nơi để tìm ” cô tiểu gia chủ” nhưng công lao của người luật sư trẻ như dã tràng xe cát biển đông, cánh nhạn vô tình vẫn biệt tâm biệt tích khiến cho người tình si tiếp tục ôm mối u hoài thương nhớ một mình!

 

*

 

Cứ vào mỗi sáng thứ bảy, ông bà đốc phủ sứ thường có thói quen xuống phố đi vòng chợ Sài Gòn và những khu vực quanh đó để nhìn người ta đi lên đi xuống suốt dọc trên các con đường Bonard, Lê Lợi, Tự Do, Nguyễn Huệ. Người đi chưng diện khoe của khoe thân thì nhiều nhưng những kẻ mua sắm thì không có bao nhiêu. Những con đường nầy là tụ điểm của dân Sài Gòn sành điệu ăn chơi lẫn lộn với những giai cấp, trào lưu mới xuất hiện kể từ ngày có sự hiện diện của quân đội Mỹ và ngoại quốc trên đất nước nầỵ Đó là những thành phần me Mỹ, ma cô, chiêu đải viên trong những phòng trà, trong những phòng tắm hơi đắm bóp trá hình; là các thành phần mua bán chợ trời, là các đám buôn lậu hàng hóa của hợp tác xã quân đội Mỹ, là những tên thầu khoán cá mập lợi dụng thời cơ để từ hai bàn tay trắng bỗng chốc trở thành những khuôn mặt triệu phú kênh kịệu.

 

Khuôn mặt của Sài Gòn, từng được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông, ngày nay bị thế giới đổi tên là ổ điếm, là thị trường buôn lậu xì ke ma túy, là môi trường của những ổ gián điệp quốc tế. Đường xá Sài Gòn tràn ngập xe gắn máy nhãn hiệu của Nhật Bản chạy đua để tranh tốc độ với xe nhà binh của Mỹ gây ra vô số tay nạn thảm thương mà không có đền bù.

 

Thói quen dạo phố ngày thứ bảy là do Kim Phượng tạo ra cho ông bà đốc phủ sứ. Ông bà ít có khi đích thân đi mua sắm lang thang ở các hàng quán ngoài chợ hoặc trên các đường phố. Nếu cần thứ gì, ông hoặc bà chỉ cần nhấc óng điện thoại để gọi người ta mang hàng đến giao tận nhà hay do người quản gia ra chợ mua mang về. Ông bà đi theo Kim Phượng không phải với mục đích nhàn du ngắm cảnh nhưng đi theo để làm người thủ quỹ trả tiền cho con gái mua sắm và ăn quà vặt.

 

Ông bà không biết ăn hàng, ngồi quán nhưng quán lều, hàng ăn lại là những nơi mà Kim Phượng thích vào cho nên mãi rồi ông bà cũng trở thành những người ăn quà vặt sành điệu với những món ngon lạ miệng trên đường phố Sài Gòn. Con gái muốn ăn gì, uống gì thì ông bà cũng phải chiều mà còn bị nó bắt ăn thử, ăn theo y hệch như nó, nếu không thì hờn, thì giỗi, không thèm ăn gì ráo, nhịn đói cả buổi sáng đi chơi. Từ ly nước mía nguyên chất của cửa hàng Viễn Đông, đĩa gỏi đu đủ thịt bò khô chua cay trên đường Pasteur phía trước bộ Công Chánh, ly đậu đỏ bánh lọt nước cốt dừa ngọt lịm bên hông chợ Bến Thành đến tô bún ốc rặc gốc ” Bắc Kỳ” của bà Ba Bủn ở phía sau chợ gần đường Lê Thánh Tôn, tô phở lòng gà phao câu béo ngậy trên đường Hiền Vương hoặc mâm bún chả (thịt nướng) thơm lừng ăn kèm với rau thơm lẫn với rau muống chẻ của tiệm Quốc Hương trên đường Trần Hưng Đạo, hay buổi ăn trưa dưới Chợ Cũ ở tiệm cơm thố của người Tàu với canh gà tiềm rong biển và đĩa lạp xường hấp ướp mai quế lộ. Tất cả những món ngon đó, tất cả những hàng quán ăn uống nổi tiếng nhất nhì ở Sài Gòn đều là những chỗ ưa thích, những chỗ ” ghiền” của Kim Phượng.

 

Mười mấy năm trước đây, ngày thứ bảy là ngày khổ sở cho ông đốc phủ sứ vì kể từ sáng cho tới lúc trở về nhà ông phải ăn nhiều, uống quá độ, rất là tạp nhạp không hợp với cung cách và phong thái của ông.

 

Bây giờ cũng dạo phố, cũng đi trên những con đường nầy, cũng ngang qua những hàng quán đó nhưng hai ông bà không còn ăn uống lung tung hay mua sắm vung tay theo kiểu của Kim Phượng nữa. Ông bà đi rong rểu như vậy để nhớ lại những ngày thứ bảy hạnh phúc mười mấy năm về trước.

 

Khi đi ngang qua chiếc xe bán gỏi đu đủ thịt bò khô trước hàng nước mía Viễn Đông, ông đốc phủ sứ kéo tay ba ngừng lại rồi hỏi:

 

–” Bà có muốn ăn món nầy không? Ngày xưa món nầy là món hảo của hai mẹ con bà đó! Ăn đứng ăn ngồi như vậy mà cứ xuýt xoa khen ngon, lại còn mua bỏ bọc gói để mang về nhà ăn tiếp!”

 

Bà đốc phủ sứ nhìn ông mỉm cười, ngọt ngào:

 

–” Có nó thì tôi mới ăn chứ đâu phải thèm khát, hảo chuộng gì đâu! Mà hồi đó ông cũng ăn đứng ăn ngồi với nó chớ đâu phải ông chỉ đứng ngó vợ con của ông ăn?”

 

–” Tôi cũng như bà, nó bắt ăn thì phải chiều theo cho nó vui thì nó mới ăn, không ăn thì nó hờn không ăn mà còn nhịn đói cả ngày, chứ có bổ béo gì ba cái thứ đu đủ sống nầy?”

 

Bà biết ông đang nhớ con gái. Bà rưng rưng nhìn ông rồi hỏi nhỏ:

 

–” Lại nhớ nó nữa rồi phải không? Cho đáng đời! Khó khăn với nó cho lắm để bây giờ cu ki chỉ còn có ông và tôi đứng đây mà sầu mà nhớ. Đáng lý ra thì giờ nầy đã có thêm đứa cháu nhảy múa lăn xăn bên cạnh chứ có đâu lêu bêu đi đứng có một mình như vầy! ”

 

Miệng ông đốc phủ sứ cười méo sệt:

 

–” Bà chiều nó quá nên nó hư!”

 

–” Ông nói ai chìu? Tôi hay ông? Mà nó hư như thể nào? Lấy chồng có hôn thú đàng hoàng mà gọi là hư sao?”

 

Ông giải thích:

 

–” Tôi đâu có ngăn cấm nó lấy chồng. Tôi chỉ muốn nó dò xét đo luờng cẩn thận trước khi lựa chọn và quyết định. Tôi đã từng tuyên bố từ lâu rằng nó ưng ai thì dù có cùi phong lở lói tôi cũng gả; nó tự lựa chọn thì nó ráng chịu, sau đó nếu có gặp khổ thì đừng có về đây mà khóc, mà than!”

 

Bà đốc phủ sứ mỉa mai:

 

–” Nó đâu có chịu về để cho ông thấy nó khóc than? Năn nỉ nó về nó cũng không thèm về, bộ ông chưa thấy sao ?

 

Giọng của ông vừa buồn vừa ấm ức:

 

–” Con cái già đâu mà lì lợm, cứng đầu quá trời! Chống đối cha mẹ thì có được lợi lộc gì chớ?”

 

–” Nó chống ông ở chỗ nào? Ông chống nó thì có. Tội nghiệp cho con nhỏ, không biết bây giờ mẹ con nó sống chết ra sao!”

 

–” Bà còn bênh vực cho nó? Tự ý quyết định không cần cha mẹ, bà thấy vậy có được không? Rồi nhắn tin gọi về cũng cố lì không chịu về, bộ nó muốn tôi quỳ xuống năn nỉ hay sao? Vậy không gọi là chống đối chứ gọi là cái gi?”

 

–” Tôi nhắc cho ông nhớ, lúc đó nó đã hơn hai mươi tuổi, đã quá cái tuổi vị thành niên rồi, phải để cho nó có cái quyền quyết định riêng về tương lai cuộc đời của nó chớ! Tuy nhiên nó vần hỏi xin phép ông, ông không thèm nghe nó bày tỏ lại quay lưng bỏ đi vào phòng riêng đóng sầm cửa lại không thèm nhìn nó! Ông cũng đừng có trách nó cứng đầu, lì lợm! Nó giống ai? Nó giống ông như khuôn chớ giống ai! Ngày xưa ông cũng y chan như vậy với ông bà nội của nó đó, sao ông không đề cập tới?”

 

Giọng của ông nhỏ lại:

 

–” Tôi khác nó khác. Tôi là đàn ông, còn nó là con gái, là đứa con nít mới lớn còn ngơ ngơ ngáo ngáo chưa có một chú kinh nghiệm gì về đau khổ của cuộc đời! Tôi chỉ sợ nó không thể gánh gồng một mình khi sa cơ lở bước vì hậu quả của sự chọn lầm lựa bậy. Mình thương nó mà nó không chịu hiểu!”

 

–” Ông nói ông khác với nó? Phải đa! bộ trái tim của ông là tim người còn còn trái tim của nó là tim bò hay sao? Nó đâu phải là con bò mà ông muốn dắt nó đi đâu thì ông dắt!”

 

Ông đốc phủ sứ buồn lặng yên. Ông lững thững tiến bước và gần như quên lửng đi bà đốc phủ sứ đang cố gắng bước nhanh theo ông ở phía sau lưng. Khi đi tới gần rìa lề đường Tôn Thất Thuyết, bên cạnh vách tường của ngôi chù Ấn Độ mà người Sài Gòn thường gọi là chùa Bà Đen, ông đốc phủ sứ ngừng lại nhìn sững hai đứa trẻ, một gái một trai. Đứa con gái ngồi sát tường ngôi chùa đang cầm cập sanh gỏ nhịp lóc cóc còn đứa con trai đang bi bô vừa hát vừa diễn một màn cải lương kể lại sự tích Phạm Công- Cúc Hoa. Giọng hát và kể chuyện của nó tới giai đoạn mô tả cảnh huống lạc loài đau khổ của hai đứa trẻ bị vắng cha mất mẹ: sự tích được đứa con trai kể rằng:

 

” Vợ của Phạm Công là Cúc Hoa vừa mới từ trần. Cúc Hoa nguyên là con gái cưng của vua rồng Long Vương đầu thai lên trần gian để làm vợ của Phạm công. Vợ vừa mới chêt chưa kịp chôn cầt, con còn thơ dại mà lệnh hành quân khẩn cấp của nhà vua lại truyền xuống cho nên Phạm Công phải kéo theo cái quan tài của người vợ vắng số và thắt dây đeo hai đứa con sau lưng của mình ra chiến trường đối địch!

 

” Tướng giặc Ô Hắc Lợi thấy chuyện lạ kỳ nên lên tiếng tra vấn cho rõ nguồn cơn. Tướng giặc nầy có một quyền phép cao siêu là nếu bị chặt rơi đầu thì tự động sẽ có một cái đầu khác mọc ra trở lại như cũ. Sau khi biết được tình cảnh thảm thương đơn chiếc của Phạm Công, tướng giặc bèn tự cắt đầu mình giao cho Phạm công, hẹn ngày tái chiến rồi ra lệnh lui binh. Phạm công chiến thắng khải hoàn trở về, lo việc chôn cất cho vợ, rồi tìm một người kế mẫu chăm nuôi hai đứa con khờ dại để mình trở lại chiến truờng đối đầu với giặc một lần nữa như đã ước hẹn.

 

Tại dinh tướng của Phạm Công, cảnh mẹ ghẻ đối xử tệ bạc với con chồng đã xảy ra thật tàn nhẫn khóc liệt đúng như câu ” Mấy đời bánh đúc có xương? Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng?” và vì vậy mà hai đứa con của Phạm Công , một gái là Nghi Xuân, một trai là Tấn Lực, hai chị em phải bỏ nhà ra đi xin ăn kiếm sống!”

 

Ông đốc phủ sứ nhìn chăm chú đứa con gái đang gỏ nhịp sanh. Ông vẫy tay thúc gọi bà đốc phủ sứ tới gần rồi xầm xì:

 

–” Trời ơi, bà coi kìa . . .Con nhà ai sáng láng tươi đẹp như vậy mà phải đi hát dạo xin tiền, thật là tội nghiệp! Mà bà thử ngó coi, đứa con gái đó sao mà nó giống con Kim Phượng nhà mình quá trời quá đất, giống như khuôn với con Phượng khi nó được mười một mười hai tuổi ! . . .”

 

Bà cũng nhìn sững đứa con gái hồi lâu nhưng rồi bà lắc đầu nói với ông:

 

–” Ông nhớ nó quá rồi nhìn thấy ai cũng giống nó hết!”

 

Bà nắm tay ông kéo đi về phía tiệm hủ tiếu Mỹ Tho hiệu Thanh Xuân trên đường Tôn Thất Thuyết. Khi người hầu bàn vưa đặt hai tô hủ tiếu thơm lừng xuống mặt bàn thì ông đốc phủ sứ lại đứng lên đi lộn trở lại chỗ hai đứa trẻ hát dạo. Ông móc túi ra đếm bốn tờ giấy bạc năm đồng rồi bỏ vào chiếc mũ lưỡi trai đặt nằm ngửa dưới đất trước mặt đứa con gái. Ông gục gật mỉm cười để chào đáp lại khi hai đứa trẻ rạp đầu tỏ dấu biết ơn.

 

Trở lại bàn ăn, ông ăn và tự nhiên ông cảm thấy hôm nay ngon miệng vô cùng. Ông vừa rót nước trà nóng ra cái chung nhỏ cho vợ vừa bàn bạc:

 

–” Cháu ngoại của mình bây giờ chắc cũng lớn cở hai đứa nhỏ hát dạo nầy phải không bà ?”

 

Bà kê chung trà lên môi nhấp một ngụm rồi nhìn ông :

 

–” Ông có cháu ngoại hồi nào? Ai là cháu ngoại của ông mới được chứ? Ông đâu có nhìn nhận cha mẹ nó thì ông làm gì mà có cháu ngoại? Nó là cháu ngoại của tôi chứ đâu phải cháu ngoại của ông! . . .”

 

Ông đốc phủ sứ lắc đầu kèm the nụ cười héo hon:

 

–” Ừ, phải rồi! Nó là con riêng cháu riêng của bà! Hồi đó ông thần cây đa chui vô bụng bà để đẻ ra nó chứ tên già nầy có hơi hám gì đâu! Vậy thì nhớ đó, đừng có nhờ cậy tên già khó khăn nầy xông xáo đi tìm, đi kiếm chúng nó. Bà là mẹ, là bà ngoại của tụi nó thì cứ giỏi mà đi tìm, lôi tụi nó về cho tôi coi có được không? . . .”

 

–” Ông gây ra tội thì ông gánh, đừng có sang qua sớt lại cho người khác . . .Đã thúc hối ông cả triệu lần để đi tìm hai mẹ con nó nhưng sao cứ thấy ông lơ lơ, là là, chẳng mấy thiết tha, vậy mà nói rằng thương nhớ cái nỗi gì? Con người của ông sao khô khan vô tình quá vậy ?”

 

Ông lẳng lặng đứng lên rời khỏi tiệm ăn, đi lộn trở ra phía đường Pasteur khiến cho bà cũng phải vội vã đứng lên bước nhanh theo sau. Khi thấy ông đã qua tới lề đường bên kia đứng đợi gần cửa cổng đi vào bộ Công Chánh, bà hấp tấp, bất cập băng ngang qua con đường đầy xe cộ để có thể bắt kịp ông đốc phủ sứ.

 

Bất thần, chiếc túi xách tay bằng da dầy cộm của bà đeo trên vai như bị ai giựt lôi ngược khá mạnh khiến cho bà phải lùi bật người trở lại. Vừa đúng lúc một chiếc xe cam nhong chở hàng với tốc độ nhanh như cơn gió lốc trờ tới và lướt nhanh qua chỉ cách thân mình của bà trong gang tấc!

 

Bà đốc phủ sứ không màng tới sự nguy hiểm mà bà vưa thoát qua vì bà đang nghĩ tới cái túi da đầy tiền và một ít nữ trang quý giá của mình. Bà quay người lại, tay níu cứng chiếc túi da, còn miệng thì hớt hãi la ơi ới:

 

–” Ăn cướp ! . . .Bớ người ta, ăn cướp giựt tiền ! . . . Bớ người ta ! . . .Bớ cảnh sát ! . . .”

 

Một người đàn ông lực lưỡng mặc thường phục từ bên trong lề đường phóng nhanh ra hướng có tiếng kêu la của bà đốc phủ sứ rồi chộp lấy bâu cổ áo thằng nhỏ trong khi tay nó vẫn còn níu cứng chiếc túi da đang đeo trên vai của bà đốc phủ sứ.

 

Hai cái tát tay đau điếng, rát buốt, tàn nhẫn khiến cho đôi gò má của thằng nhỏ sưng húp và đỏ rần ngay tức khắc! Thằng nhỏ buông rời chiếc túi da để đưa tay lên che mặt tránh đòn. Đôi mắt của nó lơ láo và ngơ ngác:

 

–” Trời ơi! Cớ gì mà ông ào tới đấm đá tui đau thấu trời vậy ? …”

 

Người đàn ông lực lưỡng chửi thề một câu rồi vén áo của mình lên cho thằng nhỏ thấy khẩu súng lục ru lô đeo ở lưng:

 

–” Tổ cha mầy, muốn lục vấn hả thằng nhóc con ăn cướp? Mầy lấn cấn, tao bắn bể cái đầu trọc của mầy bây giờ đó! Muốn lý sự hả? Để về tới bót cảnh sát rồi tao cho mầy hỏi . . .”

 

Khi hai cùm tay bị còng xích ngoặc về sau lưng, thằng nhỏ mới vỡ lẽ ra người đàn ông lực lưỡng đó chính là một công an chìm không mặc sắc phục để len lỏi hoạt động săn bắt trộm cướp trên các hè phố.

Sau đó thằng nhỏ và đứa con gái hát dạo bị tống lên một chiếc xe bít bùng đưa về tổng nha cảnh sát ở đường Trần Hưng Đạo. Tại phòng thẩm vấn, người cảnh sát điều tra đang hạch hỏi đứa con gái một cách nghiêm khắc:

 

–” Họ gì, tên gì? ”

 

–” Dạ thưa thầy ba . . .”

 

Người cảnh sát trừng mắt, cắt ngang:

 

–” Không thưa gỏi gì hết! Chỉ cần trả lời theo câu hỏi, biết chưa ?”

 

Đứa con gái tái mặt gật đầu:

 

–” Tên cháu là Nguyễn Phượng Uyên . . .”

 

–” Mấy tuổi? ”

 

–” Mười bốn tuổi.”

 

–” Sinh quán?”

 

Phượng Uyên ngơ ngác nhìn người cảnh sát:

 

–” Dạ thưa …Cái gì là sinh quán?”

 

Giọng người cảnh sát nóng nảy, bực tức:

 

–” Là cái chỗ má của cô mầy đẻ ra cô mầy đó, biết không?”

 

–” Dạ cháu được sinh ra ở Sài Gòn, quận ba . . .”

 

–” Nghề nghiệp?”

 

–” Dạ thưa, trước đây là học sinh nhưng bây giờ thì đang nghỉ học vì bị tai nạn chiến tranh . . .”

 

Người cảnh sát ghi vào tờ khẩu cung VÔ NGHỀ NGHIỆP rồi hỏi tiếp:

 

–” Cha tên gì ? Mẹ tên gì? ”

 

–” Thầy ba muốn hỏi tên ba mẹ nào? Vì cháu có tới hai ba và hai mẹ lận? . . .”

 

Người cảnh sát giận dữ đập mạnh tay lên bàn rồi nói như hét vào tai đứa con gái:

 

–” Tao muốn biết tên của ông nào, bà nào ngủ với nhau để lòi ra cô mầy đó biết không, đồ mặt đục! Đừng có cù cưa, tao cho mầy nằm phòng tối và nhịn đói bỏ cha đó con! Khôn hồn thì trả lời cho lẹ, làm mất thì giờ của tao thì đừng có trách!”

 

Phượng Uyên bắt đầu run sợ:

 

–” Dạ thưa cháu chỉ được kể lại ba ruột của cháu đã chết và tên là Nguyễn Ngọc Uy còn mẹ ruột của cháu là Trần Kim Phượng, hiện giờ cháu không rõ sống chết ra sao . . .”

 

Người cảnh sát ghi vào biên bản CON VÔ THỪA NHẬN.

 

–” Cô mầy có quan hệ gì với thằng nhóc con ăn cướp giựt đồ giữa ban ngày kia?”

 

Phượng Uyên lắc đầu phân bua:

 

–” Dạ thưa thầy ba, nó đâu có cướp giật tiền bạc gì của bà ta đâu! Cháu thấy bà già đó chạy băng qua đường mà không chịu nhìn trước ngó sau cho nên sắp bị xe đụng. Cháu hốt hoảng la lên để báo nguy cho bà ta. Thằng nhỏ nghe cháu la liền ngừng hát rồi vội vã chạy ù ra để kéo lui bà già trở lại vì lúc đó đang có một chiếc xe đang vung vút lao tới mau như tên bắn! Nếu không nhờ có nó lôi trở lại thì có lẽ bà già đó đã trở thành cái xác không hồn nằm đơ giữa mặt lộ rồi đó ! . . . .”

 

Một cái bạt tay nẩy lửa giáng vào mặt Phượng Uyên kèm theo với tiếng hò hét cọc cằn:

 

–” Đồ ranh con lẻo mép, ai mượn tụi bây lôi kéo? Giữa ban ngày ban mặt giựt túi tiền của người ta sờ sờ như vậy mà còn muốn chối quanh phải không?”

 

Mặt của Phượng Uyên rát nóng vì cái tát tay tàn bạo của người cảnh sát vô nhân, thô lổ nhưng vẫn ôm mặt cố nén sự đau đớn để tiếp tục giãi bày:

 

–” Cháu nói sự thật chứ không phải đặt điều để dối quanh. Thằng nhỏ nầy vô tội, nó không có chủ tâm giựt cái túi da đựng tiền của bà già đó. Nó đã cứu bà ta khỏi bị xe cán mà! Cháu xin lấy danh dự mà khai như vậy để làm chứng cho nó, xin thầy ba thương tình xét lại . . . .”

 

–” Cô mầy đừng có tiếp tục chống chế chối quanh. Cô mầy là gì của nó? Có phải là đồng mưu với nó để tổ chức giựt túi, móc bóp của người ta hay không? Tụi bây là một lũ nhóc vô thừa nhận, đầu trộm, đuôi cướp, kết bè kết nhóm chôm chỉa, không từ nan bất cứ một chuyện làm phi pháp nào! Khôn hồn thì phải thú nhận bằng không tao sẽ báo cáo thật nặng cho tụi bây ở tù rục xương. Bây giờ có chịu khai thật hay chưa? Cô mầy là gì của thằng ăn cướp kia?”

 

Phượng Uyên nhìn qua thằng nhỏ. Môi dưới của nó bị dập bể vì bị người cảnh sát chìm đấm đá từ lúc nó bị bắt giữ xô lên xe bít bùng để đưa về đây. Thân áo trước ngực nó bị nhuộm máu đỏ ối, đó là máu chảy xuống từ bờ môi sưng vù của nó. Hình như nó không biết đau vì Phượng Uyên thấy nó vẫn tỉnh queo theo dõi cuộc đối chất giữa Phượng Uyên và người cảnh sát điều tra. Vừa rồi, khi Phượng Uyên bị người cảnh sát đánh vào mặt, thằng nhỏ theo phản ứng tự nhiên chồm người tới để che đỡ cho cho đứa con gái nhưng chiếc còng xích sắt khóa dính hai tay của nó vào thanh cửa sắt cho nên toàn thần nó bì ghì giật mạnh ngược trở lại khiếng cho hai cùm tay của nó bị trầy khứa cắt đứt khá sâu đến ứa máu!

 

Thấy cảnh tượng thê thảm oan ức của thằng nhỏ, Phượng Uyên uất nghẹn và bật khóc! Mắt Phượng Uyên đổ hào quang nhìn thẳng người cảnh sát điều tra rồi nói bằng một giọng chậm rãi, lạnh lùng:

 

–” Thằng nhỏ nầy là em ruột của tôi, tôi bảo nó làm gì thì nó làm theo chứ nó chẳng biết ất giáp gì ráo! Yêu cầu thầy ba thả nó ra, bao nhiêu tội, bất cứ tội gì, dù nặng dù nhẹ , thầy ba cứ việc mặc sức ghi ra, tôi sẽ ký tên nhận chịu hết, chỉ xin thầy ba tha cho nó vì nó bị oan ức vô tội!. . .”

 

Người cảnh sát ghi vào tờ khẩu cung NGUYỄN PHƯỢNG UYÊN ĐÃ TỰ THÚ NHẬN LÀ CHỦ MƯU RA LỆNH CHO TÊN THỦ PHẠM CON TRAI THI HÀNH CHUYỆN GIỰT TÚI TIỀN CỦA KHÁCH BỘ HÀNH TRÊN ĐƯỜNG PASTEUR . . .

 

Trong khi người cảnh sát đang tiếp tục ghi chép thì Hùng Cường Nhí la lớn lên:

 

–” Nói bậy! Con nhỏ đó nó nói láo! Yêu cầu mấy ông mấy thầy đừng nghe lời nó! Tui không có liên hệ cật ruột gì hết với đứa con gái đó. Chuyện nầy là tự ý tui làm một mình, không ăn thua gì tới nó hết! Nó có làm gì đâu mà mấy thầy đánh đập, ép bức nó dữ vậy?”

 

Người cảnh sát quăng mạnh cây viết xuống mặt bàn, đứng rột dậy rồi nhảy chồm tới đá tới tấp vào thân hình bé bỏng của thằng nhỏ:

 

” Đ. . .m . .mầy rộng họng la lối với ai vậy? Ai cho phép mầy nói, mầy la? Tao đá cho gãy ba sườn mầy ra cho mầy hết lẻo mép, lắm mồm, lắm miệng. . .Ai cho mầy xía vô khi mầy chưa được hỏi tới?”

 

Thằng nhỏ co cụm đôi tay ôm ngực lảo đảo khuỵu xuống. Nó nhăn mặt ngó Phượng Uyên:

 

–” Chị Hai! . . .Sao chị ngu cải trời vậy? Khi không mà chịu nhận tội! Cớ sự như vầy là tại Nhí chứ đâu có ăn thua gì tới chị ? . . .”

 

Nó quay sang người cảnh sát:

 

–” Thầy ba ơi! Thân tui nhỏ xíu, cà tong cà teo như cây sậy, vậy mà thầy lại nỡ lòng nào hết đấm, thoi rồi lại đá tới đá lui bằng đôi giày nhà binh của thầy, làm sao tui chịu cho thấu! . . .Bây giờ thầy đừng đánh đập nữa, thầy cứ đưa tờ giấy trắng lại đây để tui ký vô trước rồi thầy muốn ghi muốn vẽ gì thì cứ việc ghi chép vô cho đầy ! . . .”

 

Nói xong mắt thằng nhỏ lịm đi, thân hình nó khuỵu xuống như trái mít rụng, đầu nó nghiêng về một bên với hai cùm tay yếu gầy bị đôi còng dây xích treo đứng tòn ten dính vào song sắt cửa sô trong nhà tạm giam giống như hình ảnh của một kẻ tử tội vừa mới bị xử bắn gục đầu nơi cọc trói ở pháp trường cát!

 

Phượng Uyên kinh hoàng đứng lên chạy xô về phía thằng nhỏ, miệng mếu máo kêu gào:

 

–” Trời ơi! Nhí ơi! Nhí sao rồi? . . .Đừng có chết Nhí ơi! Đừng bỏ chị ở lại một mình ! . . Nhí ơi! . . .”

 

Prev

Prev

 

Chương 5

 

Next

CHƯƠNG 5

Chương 5

Người ni cô nhìn Kim Phượng để nhận xét hồi lâu rồi hỏi:

 

–” Thí chủ tự nhận là mẹ ruột của Phượng Uyên và muốn biết hiện giờ Phượng Uyên ở đâu phải không?”

 

Kim Phượng nghiêm sắc mặt nhìn thẳng người ni cô, giọng dứt khoát:

 

–” Dạ thưa ni cô đúng vậy . . .”

 

–” Thí chủ đã thu lượm tin tức về Phượng Uyên từ đâu?”

 

–” Từ phòng quản đốc của bệnh viện Chợ Rẫy ở Chợ Lớn.”

 

–” Bộ hai người tử nạn ở Tân Uyên không phải là ba mẹ của Phượng Uyên sao?”

 

–” Hai người đó cũng là ba mẹ của Phượng Uyên nhưng họ không có mang nặng đẻ đau và sinh ra nó. Họ chỉ là ba mẹ nuôi của nó . . .”

 

–” Vì cớ làm sao mà họ lại nuôi nấng Phượng Uyên? Còn thí chủ là mẹ ruột của cháu Phượng Uyên thì ở đâu mà lại để con gái mình cho người khác nuôi, có sinh mà không chịu dưỡng ?. . .”

 

Kim Phượng nhíu mày khó chịu vì câu hỏi thẳng thừng của người ni cô nhưng vẫn bình tỉnh trả lời:

 

–” Chuyện nầy khá dài dòng và là chuyện riêng tư cá nhân cho nên xin miễn cho tôi khỏi phải nói ra. Ni cô là người tu hành chắc không thể nào hiểu được nỗi đau đớn của một người mẹ vì hoàn cảnh trái ngang phải giao con mình cho người khác nuôi để mình đi . . . . làm . . . điếm . . .kiếm sống và gửi tiền về nuôi con. Tôi không phải là hạng người vô trách nhiệm vui thú tình dục cho sướng xác thân rồi phá thai hay đem con bỏ chợ, xin ni cô hiểu dùm cho . . .”

 

Người ni cô mỉm cười thông cảm:

 

–” Xin thí chủ đừng thịnh nộ vì những câu hỏi đường đột của chúng tôi, vì ở đây đa số là những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi không chịu nhìn nhận, và khi chúng vô đây rồi thì rất hiếm có trường hợp cha mẹ hoặc thân nhân của các em tới thăm hỏi hay xin nhận lãnh các em trở lại để mang về. Cũng có những trường hợp mạo nhận danh nghĩa để nhận con mang về rồi bắt đứa trẻ đi ăn mày ăn xin, móc túi, giựt tiền hoặc bán mấy em gái 12, 13 tuổi cho mấy chú ba trong chợ lớn làm chuyện tầm bậy, để những người ác đức ngồi khoang tay rế trục lợi, khai thác! Có những trường hợp nhóm người ác nhơn đập cho óng quyển của đứa nhỏ bị gảy lià, hoặc tiêm, chích độc chất cho nó trở thành di dạng, tàn phế bò lê khắp nẻo đường để lôi kéo lòng thương xót bố thí của dân chúng rồi mang tiền về nộp cho những tên đầu nậu quỉ sứ! Vì thế chúng tôi phải rất thận trong khi có người tới xin nhận các trẻ mồ côi ở đây để làm con nuôi hoặc có người tự nhận là cha mẹ ruột của đứa trẻ. . .Riêng trường hợp của thí chủ đây thì thật là hiếm có!”

 

Kim Phượng giải thích thêm:

 

–” Tôi đâu có tự mang con đem bỏ vào chốn nầỵ Nó được những người thay mặt tôi nuôi dưỡng chăm sóc thật chu đáo với những phần tiền trợ cấp hằng tháng bán thân của tôi gởi về chứ nó đâu phải là đứa con hoang vô thừa nhận!”

 

Người ni cô vẫn giữ thái độ ôn tồn:

 

–” Tôi biết, tôi biết điều đó vì chính tôi là người mang Phượng Uyên chạy đi cứu chửa mà cũng chính tôi đem Phượng Uyên về trại mồ côi nầy để cho em tạm có chốn dung thân sau khi được cứu sống và chữa lành thương tật. Đây là một hành động cứu độ chúng sinh của nhà Phật mà những người tu hành theo Phật pháp thường làm, không cần biết nạn nhân là hạng người gì trong xã hội ta bà nầy. Bất cứ ai gặp khổ nạn, dù người đó là kẻ ăn trộm hay người sát nhân, nếu họ bị nạn thì chúng tôi vẫn cứu vớt, phần tội lỗi của họ thì về mặt đời sẽ có luật pháp xử trí nhưng chúng tôi không bắt giữ họ lại để giao cho chính quyền mà chỉ mong họ tự động đầu thú sau khi họ được nghe thuyết giảng và giác ngộ biết mình phải làm gì để chuộc lại tội lỗi mà họ đã phạm đối với xã hội. Phượng Uyên không phải là người tội lỗi cần giác ngộ, chỗ nầy chỉ là chỗ tạm dung cho em, nhưng không hiểu sao cô tiểu thí chủ đó lại tự động bỏ trại ra đi. Đời sống ở đây hơi kham khổ một chút nhưng không đến nỗi tồi tệ đến mức để cho em phải bỏ đi không một lời từ biệt! . . .”

 

Kim Phượng choáng váng khi nghe tới những lời cuối cùng của người ni cô. Giọng hỏi Kim Phượng hớt hải:

 

–” Ni cô nói cái gì? Phượng Uyên bỏ trại trốn đi? Nó đi đâu? Đi hồi nào? Trời ơi, sao lại có chuyện đó? . . ”

 

–” Thí chủ hãy bình tĩnh, đừng quá xúc động khiến cho tâm trí trở thành tối tăm không tìm được phương thế giải quyết. Bần ni không tin Phượng Uyên có gan bỏ trại để ra đi một mình. Có lẽ em đã nghe theo lời xúi bẩy của kẻ khác cho nên em mới hành động như thế.”

 

–” Xúi bẩy? Ai xúi? Ai dắt nó đi? Trời ơi! Nếu vậy thì khổ cho con của tôi rồi! Bây giờ phải làm sao đây? Người đó, kẻ xúi giục đó là ai? Là đàn bà, là con gái hay đàn ông, con trai? Là người lương thiện hay kẻ bất lương? . . .”

 

–” Là một đứa con trai cùng trang lứa với Phượng Uyên. Đứa con trai nầy nếu xếp vào hạng lưu manh quỷ quyệt thì cũng đúng mà cho nó là một kẻ lương thiện có tình người, biết ân oán phân minh thì cũng không sai. Nó thường chơi đùa trò chuyện thân thiết và rất kính nể Phượng Uyên, coi Phượng Uyên như là người chị ruột của nó . . .”

 

Nghe người ni cô kể tới đây, tự nhiên một hình ảnh quen thuộc nào đó trong tiềm thức của Kim Phượng bổng dưng loé lên như một tia sấm chớp khiến cho Kim Phượng bắt đầu lầm bầm một mình như người đang say rượu:

 

–” Hai đứa nhỏ! . . .Một gái, một trai, trời ơi! Đúng là chúng nó rồi! Ở bến xe! . .Ngả ba Chợ Đồn . . . Nó mỉm cười vẫy tay chào mẹ ruột của nó mà nó không biết . . .Còn mình thì đứng chết trân nhìn đứa con lạc loài của mình mà không hay! . . .”

 

Kim Phượng đột nhiên quay ra khỏi văn phòng làm việc của người ni cô chạy hối hả ra khỏi cổng trại, không kịp một lời giã từ mà cũng không thiết gì tới những lời kêu gọi giật trở lại của người nữ tu sĩ.

Khi ra tới đường cái, Kim Phượng vẫy tay tới tấp để chận ngừng một chiếc xe lam ba bánh trống khách đang chạy ra hướng Bà Rịa. Kim Phượng băng qua đường, chạy bay đến người tài xế, rồi nói một cách hổn hễn, gắp rút:

 

–” Bác tài ơi, bác làm ơn chở dùm cháu đi Tân Uyên liền ngay tức thời . . .Đây, tiền đây, bác khỏi cần đếm, cứ việc cầm hết, miễn sao bác đưa cháu tới Tân Uyên cho kịp, càng nhanh càng tốt . . .”

 

Người tài xế xe lam mở mắt thau láu nhìn xấp giấy bạc dầy cộm rồi lại ngơ ngác nhìn người đàn bà sang trọng:

 

–” Cô Hai ơi, xe nầy tui đi Bà Rịa chứ đâu có đi Tân Uyên . . .Cô Hai muốn đi Tân Uyên thì phải đón xe về Biên Hòa hoặc ra ngả ba Chợ Đồn mà đi chứ đâu phải đi hướng nầy! . . .”

 

Kim Phượng không nói gì thêm nhưng lại mở túi xách tay móc ra thêm một xấp bạc mới:

 

–” Đây nè, cháu đưa thêm cho bác . . .Cháu xin bao luôn chiếc xe nầy . . .Xin bác thương, chở cháu đi cho kịp . . . Bác quành xe lại, lẹ lên . . .”

 

Nói xong, không cần biết người chủ xe có bằng lòng hay không, Kim Phượng đã nhảy tót lên ngồi lọt vào bên trong lòng chiếc xe lam trống rỗng.

 

Khi chiếc xe ngừng ở phía đầu lộ đưa vào nghĩa địa Tân Uyên, Kim Phượng nhảy vội xuống rồi vừa chạy vừa nói với trở lại với người tài xế:

 

–” Bác tài ở đó đợi cháu trở ra để đưa cháu trở về Vũng Tàu. Có thể chuyến về nầy sẽ có thêm hành khách đi theo xe của bác nữa đó! . . .”

 

Hai mươi phút sau trên đường về, trong chiếc xe chỉ có một mình Kim Phượng ngồi đơn độc ở phía sau còn người tài xế thì vừa lái xe vừa lơ mơ thắc mắc không hiểu người đàn bà trẻ đẹp giàu sang kia đi đâu mà hối ha, hối hả, không biết có chuyện gì khẩn cấp mà vội vội, vàng vàng để rồi bây giờ ngồi đó yễu xiều buồn xo theo ánh nắng chiều èo uột sắp tắt trên con lộ độc đạo thanh vắng cô liêu nầy.

 

[center]***[/center]

 

Giọng nói của người đàn ông ôn tồn:

 

–” Tôi xin lặp lại với bà một lần nữa: tôi chỉ là một người viết báo thuê chứ không phải là một thám tử chuyên nghiệp dò tìm tin tức trẻ lạc. Việc của bà nhờ cậy có lẽ không hợp với khả năng của tôi rồi! . .Rất tiếc! . . .”

 

–” Tôi đọc những bài phóng sự của ông viết về những đứa trẻ bụi đời, tôi không hiểu ông đã căn cứ vào đâu để viết về nếp sống của những đứa nhỏ nầy? Theo tôi nghĩ, làm sao ông ký giả có thể phản ảnh được một cách trung thực trạng huống của đám trẻ thảm thương đó nếu ông ký giả không chịu tìm kiếm rồi tiếp xúc với chúng nó. Bộ ông ký giả tưởng tượng ra để viết hay sao? Hay là ông viết ra từ những kinh nghiệm bụi đời của chính bản thân ông từ thuở thiếu thời? . . .”

 

Người đàn ông gật đầu:

 

–” Tôi viết theo tài liệu, sách báo và căn cứ theo những bản báo cáo của tổng nha Cảnh Sát và tài liệu từ những trại trừng giới của bộ Tư Pháp Sài Gòn. Ngoài ra, thực trạng về tệ nạn trẻ bụi đời thì có ngày nào mà chúng ta không gặp một vài nhóm nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm của thành phố Sài Gòn hỗn loạn nầy?”

 

–” Tôi xin lỗi trước, nói ra điều nầy sẽ làm phật lòng ông ký giả: kiểu viết lách của ông là kiểu viết theo, kiểu viết dựa hơi, viết để câu đọc giả chứ không có ích lợi gì cho đám trẻ đáng thương đó. Không khéo thì ông lại kéo lôi đọc giả nghe theo để ủng hộ và cổ võ cho sở trừng giới chỉ biết thanh lọc, trừng phạt một cách máy móc mà không cần mở ra cho chúng nó một con đường sống hoàng lương. Hỏi ông ký giả: có khi nào ông gặp được một báo cáo, một tài liệu, một bài viết nào nói tốt hoặc bênh vực về nếp sống của đám trẻ nầy hay không? Hay là ông và những người khác chỉ thấy chúng nó là những thành phần hạ cấp, bần tiện, là những con chiên ghẻ của xã hội, là bọn vô gia đình ăn cắp, giựt giọc, đánh thuê chém mướn, những tên lưu manh côn đồ chưa sạch máu đầu ?”

 

Người ký giả ngạc nhiên ngồi yên nhìn sững người đàn bà đối diện:

 

–” Theo bà, thì tôi phải làm sao?”

 

–” Ông cứ tiếp tục viết về đám trẻ bụi đời đó nhưng ông nên đi tìm kiếm, tiếp xúc với chúng, sống với chúng rồi viết. Sẵn một công hai việc, ông đi kiếm dùm tôi hai đứa nhỏ nầy, sở phí bao nhiêu tôi xin chịu hết. Hình dạng của hai đứa nó tôi đã mô tả rõ ràng cho ông rồi. Và đây là một phần tiền ứng trước để ông tiêu xài trong khi thực hiện những bài phóng sự sắp tới của ông. Lúc nào cần thêm xin ông Ký giả đừng ngần ngại cho tôi biết bằng cách nhắn về hộp thư riêng của tôi số 195 ở sở Bưu Điện Sài Gòn, bên hông nhà thờ Đức Bà. Xin ông cố gắng, tôi thành khẩn mong ông giúp cho vì chuyện của 2 đứa trẻ nầy là một vấn đề cần kíp mà tôi phải giải quyết bằng mọi giá . . ., kể cả việc hiến thân tôi để có thể tìm lại cho bằng được chúng nó! . . .”

 

Người ký giả tò mò:

 

–” Hai đứa nhỏ nầy có liên hệ gì với bà mà xem bà có vẻ nghiêm trọng dữ vậy ?”

 

Người đàn bà mỉm cười lắc đầu không trả lời rồi quay lưng bước nhanh ra khỏi phòng tòa soạn. Từ phía sau lưng, giọng của người ký giả hắp tắp hỏi tới:

 

–” Xin lỗi cho tôi được biết quý danh ?”

 

–” Tên tôi là Phượng, Trần Kim Phượng . . .”

 

Khi người cảnh sát diều tra hình sự kéo lê Hùng Cường Nhí và Phượng ra xe bít bùng để giải giao qua phòng dự thẩm tòa án thiếu nhi thì đã có một người đàn ông đứng đợi sẵn gần cửa xe. Người nầy đưa máy ảnh lên nhá chụp liên hồi hai đứa nhỏ bị còng tay đang khập khiễng lê lết đi theo sức kéo thô bạo của người cảnh sát. Môi của thằng nhỏ còn rịn máu và đôi gò má của đứa con gái thì sưng húp đỏ ửng.

Người cảnh sát đẩy hai đứa nhỏ vào hòm xe bọc lưới sắt, vội vã đóng sầm cánh cửa bọc kính dầy có phủ màn che khuất bên trong hòm xe. Liền ngay sau đó, với một động tác lanh lẹ và bất chợt, người cảnh sát xông về phía người đàn ông để giật mạnh cái máy chụp hình đồng thời sừng sộ hét lớn:

 

–” Ông nầy làm gì mà đứng xớ rớ ở đây? Ai cho phép ông tự do xuôi ngược để chụp hình lấy ảnh? Ông có biết đây là khu cấm người lạ mặt lai vảng không? Chụp hình mấy tên nhóc con lưu manh đó để làm gì?.”

 

Người đàn ông bất thần, bị choáng váng một lúc vì hành vi chụp giựt của người cảnh sát, nhưng đã cố lấy lại bình tĩnh trả lời:

 

–” Dạ thưa thầy ba, chúng tôi là phóng viên của nhật báo Dân Tiến. Tôi cũng là đặc phái viên thường trực của tờ báo Quốc Tế Nhân Quyền do cơ quan Liên Hiệp Quốc chủ trương và xuất bản. Chúng tôi hiện giờ đang viết về tình trạng những đứa trẻ bụi đời ở Sài Gòn và các vùng phụ cận, vì vậy chúng tôi cần những hình ảnh trung thực để trình bày với độc giả. Đây là thẻ ký giả của tôi. . . .”

 

Trong khi người cảnh sát phớt lờ không thèm ngó tới tấm thẻ, người phóng viên lại tiếp tục:

 

–” Tôi yêu cầu thầy ba hãy trả lại chiếc máy chụp hình kia dùm, có được không . . .thầy ba?”

 

Người cảnh sát giận dữ:

 

–” Tôi tịch thâu cái máy chụp hình nầy. Đừng tưởng đem cái danh hiệu phóng viên của Liên Hiệp Quốc cùng với ba cái nhân quyền nhân thọ gì đó để hù người ta . . .Ông mà còn lộn xộn, tôi sẽ bắt nhốt ông luôn cho coi! Khôn hồn thì hãy lánh xa chốn nầy cho lẹ . . .”

 

Người phóng viên mỉm cười, giọng nói có vẻ thách thức, châm biếm:

 

–” Thầy ba muốn bắt tôi hả! . . .Thầy làm tôi bắt đầu run rồi đó! Thầy cứ việc thử coi! . . .Bộ ở đây và dưới chế độ nầy, những người như thầy có quyền muốn bắt ai, muốn tha ai cũng được hết phải không? Luật pháp gì mà ngộ quá vậy? . . .”

 

Nói xong, bỏ mặc viên cảnh sát há hốc cứng miệng đứng yên bất động, người đó vội vã bước vòng ra sau cửa sau xe có chấn song sắt để hỏi vọng vào bên trong thùng xe:

 

–” Mặt mày của mấy em sau mà bầm tím, máu me dữ vậy? Bị ăn đòn, đánh khảo phải không?”

 

Giọng của đứa con trai oang oang từ trong chuồng lưới sắt:

 

–” Họ đấm, họ đá, họ thoi, họ thụi . . . tụi tui đó ông ơi! . . .Tụi tui bị oan, không có làm gì phạm tội hết vậy mà bị cái ông đó hành hạ tơi bời rồi còn đưa qua tòa để đày đi Bà Rá, Ông Yệm nữa! . . .Oan ức quá trời quá đất đi ông ơi! . . .Ông làm ơn nói dùm họ thả tụi tui ra . . .Tụi tui vô tội mà! . . .”

 

Người cảnh sát bước tới xô gạt người phóng viên qua một bên rồi vừa chữi thề vừa hét:

 

–” Tổ cha tụi bây, muốn vu họa cho tao hả? Ừ, tao đánh tụi bây đó, ai làm gì được tao? Cái thứ ăn cướp giựt đồ như tụi bây thì chỉ có nước đem bắn bỏ chứ đấm đá không thôi thì ăn thua gì ? . . .”

 

Rồi quay sang người phóng viên, anh ta trợn mắt:

 

–” Còn cái ông phóng viên, phóng uế nầy nữa, có muốn khiếu nại cái máy chụp hình thì cứ việc làm đơn hay muốn viết lách, vẽ rồng, vẽ phượng gì thì về tòa soạn của ông mà viết mà vẽ, đừng đứng đây cản trở nhân viên công lực đang thi hành phận sự . . .”

 

Nói xong, người cảnh sát vội mở cửa xe lên ngồi cạnh người tài xế. Khi xe sắp rồ máy lướt bánh thì người phóng viên cố nói với theo:

 

–” Thầy ba có biết rằng những gì thầy ba nói cùng với những tiếng kêu la thảm thương oan ức của hai đứa nhỏ bụi đời kia sẽ là những chứng cớ mạnh mẽ tố giác hành động vi phạm nhân quyền một cách trắng trợn của thầy ba đó ! . .”

 

Người cảnh sát ló đầu ra khỏi cửa xe, giọng thách thức:

 

–” Muốn tố cáo trước công luận hả? Cứ việc làm thử coi, chứng cớ ở đâu ra? Đừng có hù dọa, tay nầy chưa từng biết sợ ai hết ! . . .. Bác tài cho xe chạy mau đi, không cần nghe những tên nhà báo nói láo ăn tiền, mất thì giờ của tụi mình! . . . ”

 

Trong khi chiếc xe rú ga lướt đi thì người phóng viên thò tay vào bọc túi áo dưới móc ra một chiếc máy thu băng nhỏ loại cầm tay rồi bấm nút: diễn tiến của những lời đối đáp từ nãy giờ được phát thanh trở lại một cách thật rõ ràng, minh bạch. Nghe xong, người phóng viên lầm bầm một mình:” Đây mới đúng là một bài phóng sự sống và xác thực một trăm phần trăm!”

 

*

 

Viên đại tá Tổng Giám Đốc Cảnh Sát lịch sự mời người phóng viên ngồi xuống rồi điềm đạm hỏi:

 

–” Ông là đặc phái viên cho tờ báo Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc phải không?”

 

Người phóng viên gật đầu:

 

–” Dạ đúng. Xin tự giới thiệu: chúng tôi là Ký giả Hoài Nam . . .”

 

–” Hân hạnh được tiếp ông Hoài Nam. Tôi đã nghe báo cáo sơ qua về việc đụng chạm giữa ông ký giả và nhân viên cảnh sát hình sự của chúng tôi ở phòng sơ vấn. Hiện giờ thì cái máy chụp hình và cuộn phim của ông đang nằm trên bàn làm việc của tôi như ông ký giả thấy đó. Bây giờ chúng tôi đề nghị như vầy: chúng tôi sẽ hoàn lại cái máy chụp hình, nhưng xin được giữ lại cuộn phim kia vì ông ký giả nên biết rằng khu vực nầy là khu cấm chụp hình . . .”

 

Hoài Nam mỉm cười nhìn người tổng giám đốc trẻ tuổi:

 

–” Kính thưa đại tá tổng giám đốc, theo chúng tôi được biết thì đại tá xuất thân là một luật gia có uy danh ở Sài Gòn. Người dân ở Sài Gòn-Chợ Lớn rất hoang hỉ khi nghe tin luật gia Trần Sĩ Tăng được bổ nhiệm vào chức vụ đầu não của ngành cảnh sát. Vì vậy tôi không tin là đại tá tổng giám đốc sẽ dung túng cho những nhân viên thuộc quyền của mình, những người nắm luật trong tay, lại có những hành động vi luật . . .”

 

Trần Sĩ Tăng mỉm cười:

 

–” Ông Hoài Nam đã biết rõ tông tích của tôi thì đở cho tôi phải tự giới thiệu. Ông Hoài Nam đề cặp tới vấn đề vi luật của nhân viên thuộc quyền của chúng tôi trong khi tiến hành thủ tục sơ vấn phải không ? Tôi xin trả lời ngay rằng chủ trương và đường lối điều tra đều phải có luật lệ quy định, ghi chép hẳn hoi chứ không thể áp dụng luật rừng, ngay cả đối với những tên tội phạm hình sự nguy hiểm và ghê tởm nhất! Tuy nhiên, trong khi thi hành phận sự, các nhân viên điều tra có nhiều lúc không thể đè nén tính nóng nảy của mình vì sự cứng đầu cứng cổ, xảo trá, điêu ngoa của những kẻ đã bị bắt quả tang phạm pháp mà vẫn rướn gân cổ để chối tội, vì thế nhân viên công lực đôi khi họ có quá tay quá chân một chút! . . .”

 

–” Luật pháp hiện hành có ấn định sự quá tay quá chân đó không, thưa đại tá? Nếu có thì giới hạn của những chuyện đó tới mức nào để gọi là hợp pháp ?”

 

–” Luật pháp ngày nay tại miền Nam nầy không cho phép khảo tra bằng đánh đập. Những kiểu khảo tra như dùng kềm, búa, điện giật, uống nước xà phòng hoặc cho đi tàu bay của thời thực dân ngày trước bây giờ không còn tồn tại dưới chế độ mới nầy.”

 

–” Nhưng nếu dùng tay chân đấm đá cho hộc máu mồm, máu mũi thì sao?”

 

Trần Sĩ Tăng nhíu mày, nhăn mặt:

 

–” Làm gì có chuyện như vậy? Ông Hoài Nam thấy chuyện đó xảy ra ở đâu và từ bao giờ?”

 

–” Nó vừa xảy ra sáng hôm nay và cũng vì thế mà tôi mới phải xin vào đây diện kiến với đại tá tổng giám đốc. Nếu đại tá không tin lời tôi thì cứ cho người phóng rửa những tấm ảnh trong cuộn phim kia và nếu sau khi xem hình mà vẫn còn nghi ngờ thì tôi sẽ có cách khác để cho sự thể được rõ ràng trắng đen . . .”

 

Trần Sĩ Tăng vẫn một mặt từ tốn, điềm đạm:

 

–” Ông Hoài Nam đã chụp được cảnh vật gì kỳ thú trong vòng đai của Tổng Nha Cảnh Sát phải không?”

 

–” Không có gì đáng gọi là kỳ thú cả! Những cảnh mà tôi chụp được thì lại rất thảm thương đau đớn: đó là những hình ảnh của hai đứa trẻ vị thành niên tay bị còng sắt lôi đi sềnh sệch, mặt mày, môi miệng bị sưng húp, bầm giập, rỉ máu . . .”

 

Người tổng giám đốc trẻ tuổi đứng lên cầm theo chiếc máy ảnh và cuộn phim, đi vòng ra phía trước bàn làm việc rồi đến gần chỗ Hoài Nam đang ngồi:

 

–” Thỉnh thoảng tôi cũng có đọc một vài bài phóng sự do ông viết và tôi cũng biết ông là một ký giả thứ thiệt, có bằng Cao học Luật khoa và nghèo rớt mồng tơi chứ không phải như những ông ký giả viết láo để câu khách, ăn tiền. Những gì ông cho tôi biết vừa rồi tôi tin là ông nói có sách, mách có chứng. Nếu bây giờ tôi giữ cuộn phim nầy lại, thì ông sẽ nghi ngờ là tôi muốn phi tang bằng chứng sự làm việc trái phép của nhân viên dưới quyền của tôi. Mía đốt có sâu, nhà dột có chỗ. Kẻ nào làm bậy thì có luật pháp trừng phạt. Nhân viên của chúng tôi làm bậy thì họ sẽ bị chế tài kỹ luật và nếu trầm trọng thì sẽ bị áp dụng luật pháp như tất cả mọi người khác. Chúng tôi không sợ phê phán vì chúng tôi không chủ trương dung túng bao che thuộc hạ của mình. Chúng tôi cũng chẳng phải lo lắng gì nếu ông muốn phanh phui chuyện nầy trước dư luận bởi vì người nào làm quấy, làm trật thì người đó phải gánh chịu hậu quả vì hành vi của mình và đó là một quy tắc luật pháp có tính cách hằng cữu trong các nước văn minh tiến bộ.”

 

Ngừng một chút, người chỉ huy trưởng lại tiếp:

 

–” Đây là cái máy ảnh và cuộn phim của ông, chúng tôi trả cho ông. Tuy nhiên, vì ông vào một nơi cấm chụp hình mà ông lại vi phạm lệnh cấm, vì thế chúng tôi sẽ biên giấy phạt ông tối đa là 400 đồng và sẽ đưa ông ra tòa án Vi Cảnh nếu ông không đồng ý đóng tiền phạt. Đó là cách giải quyết của chúng tôi, ông Ký giả Hoài Nam nghĩ sao ?”

 

Hoài Nam đứng lên bắt tay Trần Sĩ Tăng:

 

–” Nghe tiếng không bằng thấy mặt, văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình. Hôm nay tôi mới thấy rằng người dân Đô Thành hoang hỉ là đúng khi họ có được một người như đại tá đứng dầu ngành ” bạn dân” . Đại tá ghi giấy phạt cho tôi tới 400 đồng, có hơi nặng tay một chút nhưng tôi vẫn thấy vui vẻ vì đại tá đã áp dụng đúng quy tắc quân pháp bất vị thân, luật pháp không biết kiên nể thiên vị. Cá nhân tôi cũng không thể nại dẫn lý do là không thông hiểu luật pháp để tự bào chữa việc làm phạm pháp của mình. Tuy nhiên, tôi có một lời yêu cầu, . . .”

 

–” Ông Hoài Nam cứ nói ra tôi xin chờ nghe . . .”

 

–” Chúng tôi xin được phỏng vấn đại tá về vấn đề trẻ bụi đời và tệ nạn thanh thiếu niên phạm pháp ở miền Nam Việt Nam nói chung, và ở Đô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn nói riêng, không biết đại tá có chấp nhận hay không? . . .”

 

Trần Sĩ Tăng gật gù mỉm cười hỏi lại:

 

–” Bộ ông Ký giả đã bỏ ý định phanh phui ra dư luận quốc tế và trong nước về việc ngành cảnh sát chúng tôi vi phạm nhân quyền hay sao ?”

 

–” Trước khi vào gặp mặt ông tổng giám đốc, tôi chỉ có ý định tiếp xúc, tìm hiểu những đứa trẻ bụi đời bị bắt đưa vào đây để làm chất liệu cho thiên phóng sự của tôi đang viết về nhừng đứa trẻ đó. Sở dĩ có dây dưa tới ba cái chuyện nhân đạo, nhân quyền là vì cách ăn nói phang ngang bửa củi và lối đối xử hơi nặng tay của thầy cảnh sát điều tra hình sự kia. Mặc dù tôi là đặc phái viên của tờ báo Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc xuất bản, nhưng tôi chưa có đủ thời giờ đi sâu vào vấn đề đó trên phần đất nầy và hơn nữa tôi không muốn vạch lưng để người ngoại quốc có cớ xen lấn vào chủ quyền quốc gia của chúng ta. Vì vậy, tôi phải tạm gác nó qua một bên để chuyên viết về những đứa trẻ bụi đời và tệ nạn thanh thiếu niên phạm pháp. Quá khứ của ông tổng giám đốc cùng với cách giải quyết minh bạch vô tư của ông khiến cho tôi nói riêng và người dân nói chung được yên tâm hơn khi thể chế nầy còn có được những người cầm cân nẩy mực như ông tổng giám đốc . . .”

 

–” Ông Hoài Nam tâng bốc tôi hơi nhiều rồi đó, nhưng cũng đừng hòng tôi giảm nhẹ phần phạt vi cảnh cho ông đâu! Nếu không đủ tiền đóng phạt thì bán cái máy ảnh mà bù vào để nhớ lần sau không chụp lung tung lang tang! . . .Bây giờ ông muốn phỏng vấn điều gì thì cứ hỏi, chúng tôi xin sẵn sàng hợp tác để ông có thể thực hiện một cách đúng đắn, chân thật thiên phóng sự của ông. . .”

 

Trên trang đầu của tờ Dân Tiến xuất bản ngày thứ bảy có chạy những hàng đầu đề bằng chữ lớn như sau:

 

THANH LỌC NHÂN SỰ VÀ CẢI TIẾN PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC THÀNH PHẦN THANH THIẾU NIÊN PHẠM PHÁP VÀ TRẺ BỤI ĐỜI KHI BỊ BẮT ĐƯA VỀ TỔNG NHA CẢNH SÁT QUA CUỘC PHỎNG VẤN NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU NGÀNH CẢNH SÁT.

 

Bài báo viết:

 

” Trong cuộc săn tìm tin tức và hình ảnh cho thiên phóng sự ” TRẺ BỤI ĐỜI” , chúng tôi may mắn lọt vào khu cấm địa của Tổng Nha Cảnh Sát, nơi lấy khẩu cung các thành phần quả tang phạm pháp về mặt hình sự, kể cả những trẻ bụi đời bị bắt đưa về đây. May mắn hơn nữa là chúng tôi đã được đại tá Trần Sĩ Tăng, tân chỉ huy trưởng ngành cảnh sát công an tiếp kiến và cho phép được phỏng vấn về tình trạng trẻ em bụi đời và thanh thiếu niên phạm pháp tại Đô Thành và ở những vùng phụ cận.

 

” Vấn đề trẻ bụi đời hiện hữu song song với tệ nạn thanh thiếu niên phạm pháp hiện nay đã trở thành một mối ưu tư hàng đầu của xã hội nước ta. Gần một thập niên qua, theo tài liệu thống kê của tổng nha cảnh sát thì số lượng trẻ bụi đời và thanh thiếu niên phạm pháp trong lứa tuổi từ 12 đến 18 càng lúc càng gia tăng. Năm 1963 thì có vào khoảng 80 đến 100 trường hợp phạm pháp tính cho mỗi 10,000 thành phần thanh thiếu niên. Số lượng nầy gia tăng nhanh chóng kể từ khi quân Mỹ và đồng minh đổ quân ào ạt vào miền Nam vào đầu những năm 70, riêng tại Đô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn đã có hơn 30,000 thanh thiếu niên phạm tội hình sự và hiện giờ thì tỷ lệ phạm pháp của nhóm nầy chiếm khoảng 20% tổng số những tội phạm hình sư.

 

” Những biến đổi quá nhanh của xã hội miền Nam Việt Nam làm tan rã nền mống đạo đức truyền thống Đại Gia Đình trong xã hội cũ của nước ta. Theo truyền thống đó, thì gia đình là nơi dung thân an toàn cho những trẻ còn non dại và cũng là sợi dây ràng buộc cho những đứa trẻ đó khỏi sa vào đàng tội lỗi phạm pháp.

 

” Xã hội miền Nam hiện nay chẳng khác gì một lò hấp bằng hơi có áp xuất cao với đầy dẫy mọi thứ vấn đề trắc trở nhiêu khê trong khi mà những người trẻ non dại cần phải có những sự hướng dẫn, giúp đỡ khi họ bị va chạm với cái xã hội mới nầy. Nền tảng luân lý và đạo đức trong con người của những thanh thiếu niên miền Nam đang bị trôi giạt trên một triền dốc vô định hướng vì nhan nhản xung quanh chúng quá ư là nhiều những hạng người không biết tôn trọng luật pháp. Không phải chỉ có thành phần thanh thiếu niên gia tăng trong tổng số những vụ phạm pháp mà ngay cả con số về những tên đầu trộm đuôi cướp già đầu cũng gia tăng nhanh chóng một cách khủng khiếp, đáng lo ngại!

 

” Bài trừ tệ nạn phạm pháp của đám trẻ làm sao được, khi có quá nhiều những kẻ thành niên trong xã hội vì phần đông bọn họ cho rằng luật chỉ áp dụng cho người khác chứ không phải áp dụng cho họ. Tình trạng khinh nhờn luật pháp càng lúc càng trở nên nghiêm trọng và tồi tệ, vì trong cái xã hội mới hỗn man nầy đang sinh sôi nẩy nở thêm những hạng người lạm dụng quyền tự do chính trị của mình để đầu tư trục lợi kinh tế. Đám người trẻ thiếu kinh nghiệm sẽ nghĩ thế nào, khi họ bị bao vây bởi những hạng người lớn đáng kính mà trong đó có cả bạn bè thân hữu và họ hàng ruột thịt của mình đang vi phạm luật lệ giao thông, đậu xe bừa bãi, tiểu tiện ở các gốc cây hay phóng uế dọc theo vệ đường, giựt hụi, trốn nợ, cho vay nặng lãi, trốn xâu, lậu thuế, buôn gian bán lận, kinh doanh ma giáo, xây cất trái phép . . .

 

” Đám trẻ nghĩ sao khi chúng bị bủa vây bởi vô số bọn người tham nhũng chiếm công vi tư, cấu kết với bọn đầu cơ trục lợi để lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và nếu bị phát giác hay bị bắt thì chỉ cần lo tiền đút lót để được tha hoặc nếu có bị phạt thì phần phạt nhiều lắm cũng chỉ bằng một cái phẩy nhẹ vào mông đít? Tuổi trẻ suy tư gì về những tệ đoan của xã hội? Đừng tưởng rằng tuổi trẻ không thèm đếm xỉa gì tới tình trạng tồi tệ của xã hội hiện nay: họ đang thu thập, theo dõi những điều xấu xa đó!

 

” Nếu xã hội hiện đại đặt nền tảng trên một cấu trúc lỏng lẻo KHÔNG LÀM MÀ HƯỞNG, hay nói khác đi nếu nền tảng của xã hội hiện nay chỉ là hình thức cấu kết giữa những cá nhân, là những sắp xếp, mặc cả âm thầm hoặc từ những thúc bách chính trị gian xảo được xã hội đó coi là quan trọng hơn là nền tảng đạo đức và luân lý, thì những quy tắc về luân thường đạo lý càng cần phải được phổ cập dạy dỗ một cách nghiêm minh và bằng những phương hướng hoàn chỉnh hơn.

 

” Nơi trường học, trong gia đình, giới trẻ vẫn còn được những bậc thầy cô, cha mẹ, anh chị, chú bác giảng huấn về những điều căn bản cần yếu cho một con người đạo đức. Tuy nhiên, những điều căn bản đạo đức do những người lớn ” thâm tình” có khi đi tới chỗ quá mức, trở thành khe khắt khiến cho bọn trẻ tối ngày phải nghe những lời hăm he, xỉ vả thay vì những lời khuyên nhủ hoặc giải thích hợp lý. Những người trẻ sẽ đem những căn bản đó để áp dụng ngoài đời, nhưng rồi người ta vẫn thấy tuổi trẻ càng ngày càng bị tiêm nhiểm những thói hư tật xấu, sa đà theo các tệ đoan xã hội với một tốc độ nhanh chóng đáng lo ngại và hầu như những căn bản đạo đức của họ bị lu mờ rồi suy mòn đi để nhường chỗ cho một nếp sống bừa bãi, hưởng thụ.

 

” Các nhóm thanh thiếu niên du đảng Việt Nam dù chưa có dịp xử dụng súng ống, lựu đạn nhiều và bừa bãi như ở Mỹ, ở Âu Châu nhưng dao búa, xích sắt, gậy gộc thì cũng hung bạo không thua bất cứ một nhóm du đảng nào trên khắp mặt địa cầu nầy.

 

” Xì ke, ma túy đã trở thành quốc nạn. Ăn trộm, ăn cướp, giật đồ, hãm hiếp, ma cô dắt mối, mãi dâm, cờ bạc, số đề, cá ngựa, sòng bài lậu . . .không còn là những lãnh vực độc quyền hoạt động dành riêng cho những bọn ma đầu lớn tuổi và buồn thay những loại hoạt động đen kiểu đó hiện nay lại là những môi trường sa đọa của đám thanh thiếu niên tự do phóng túng. Các trẻ bụi đời cũng sẽ rơi vào cái hố sa đọa nầỵ

 

” Mặt khác, không thể trút hết tội mà cho rằng xã hội ngoài đời là căn nguyên của sự gia tăng nạn thiếu niên phạm pháp: TẠI XÃ HỘI SUY ĐỒI CHO NÊN CON NÍT MỚI HƯ HỎNG. Thái độ nầy là một thái độ tiêu cực, chạy trốn thực tế. Không thiếu gì những trẻ hoang đàng xuất thân từ những gia đình cao sang quyền quý, chỉ vì những bậc cha mẹ lo chạy đua theo tiền tài danh vọng mà bỏ lững việc hướng dẫn, dạy dỗ con cái. Tại sao không nói rằng, tại những người lớn hư hỏng làm cho xã hội suy đồi, khiến cho con nít noi gương theo con đường tội lỗi của những bậc cha ông đi trước?

 

” Cũng đừng quên rằng nếu xã hội tiến triển theo chiều hướng vô luật pháp thì khó có thể nào đưa đẩy được đám trẻ vào vòng ảnh hưởng của đạo đức, công lý và cho đến khi nào mà căn bản đạo lý bị trào lưu vật chất khuất lắp mất đi thì bất cứ nền luật pháp nào dù có tân tiến tới đâu đi chăng nữa cũng không thể bày trừ cho tận gốc những tệ đoan xã hội trong giới trẻ. Càng tồi tệ hơn nữa nếu luật pháp chỉ dành để áp dụng cho cho những người khác trong xã hội trong khi một nhóm, hay một thiểu số hạng người nào đó trong xã hội được đặc miễn KHÔNG PHẢI TỘI chỉ vì họ là những kẻ ăn trên ngồi trước hoặc họ là những người đang nắm luật pháp trong taỵ

 

” Trong các triều đại quân chủ ngày xưa, nhà vua được coi là mẫu mực tuyệt đối cho thần dân phải noi theo và do đó nhà vua tự coi mình là có đầy đủ quyền năng ban phát ra những tiêu chuẩn luật lệ để lèo lái cuộc sống tinh thần và vật chất của người dân đen.

” Trong các thể chế dân chủ hiện đại, trách nhiệm xã hội không còn nằm trong tay của một cá nhân đặc biệt nào mà phải được phân bố đồng đều cho tất cả mọi người công dân. Tất cả những người lớn phải là tấm gương soi mẫu mực cho người trẻ.

 

” Thanh thiếu niên ngày nay đang quan sát theo dõi những người lớn chúng ta một cách rất chi li, rất chăm chú .”

 

*

 

Và sau đây, báo Dân Tiến xin ghi lại cuộc phỏng vấn đại tá chỉ huy trưởng Cảnh Sát TrầnSĩ Tăng:

 

–Hỏi: ” Trước khi về nắm giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, có phải đại tá là một luật gia ?”

 

–Đáp: ” Dùng chữ luật gia thì hơi dao to búa lớn một chút! Chúng tôi học luật và từ khi tốt nghiệp thì được giữ chức vụ của một thẩm phán ở viện Chưởng lý Sài Gòn.”

 

–” Đại tá nghĩ thế nào về tệ trạng trẻ bụi đời và thanh thiếu niên phạm pháp? Tại sao con em chúng ta hư hỏng quá nhiều mà luật pháp không chận đứng nỗi?”

 

–” Chúng tôi biết ông ký giả Hoài Nam cũng là người học luật và có trình độ cao hơn chúng tôi là những người đi trước. Sở dĩ phải đề cập tới vấn đề học hành của chúng ta ở đây cũng chỉ vì muốn nhấn mạnh ở một điểm mà chúng tôi nghĩ rằng ông ký giả cũng đồng ý là vấn đề trẻ bụi đời và thanh thiếu niên phạm pháp không thể giải quyết một cách đơn giản bằng luật pháp cho dù rằng nền luật pháp đó do những chuyên gia luật pháp sáng chói có bằng cấp cao soạn thảo. Bất cứ ở một quốc gia nào trên thế giới cũng có những thành phần trẻ bụi đời và thanh thiếu niên phạm pháp chứ không riêng vì ở nước ta.”

 

–” Vậy thì luật pháp hiện hành để làm gì?”

 

–” Luật pháp chỉ là một mặt của toàn thể cấu trúc xã hội: luật pháp giống như người đi chăn cừu thì phải có cây gậy. Cây gậy chỉ là một hình ảnh nhắc nhở cho những con cừu hướng theo để đi đúng hướng và luôn luôn ở trong bầy. Khi một con cừu bị bệnh, không thể dùng cây gậy để chửa bệnh hoặc đập chết con cừu để mầm móng bệnh khỏi lan tràn trong bầy cừu. Theo thiển ý thì có 2 phương cách để đối phó: 1/- Phòng bệnh; 2/- Nếu có bệnh thì phải có thú y sĩ giỏi để chẩn khám và cho thuốc. Thú y sĩ ở đây giống như những trại cải huấn cho những trẻ bụi đời phạm tội nhẹ và các trại trừng giới cho các thành phần thanh thiếu niên phạm pháp hoặc tái phạm những tội nặng hình sự.

Chúng tôi vẫn gọi là trại trừng giới, nghe hơi rợn tóc gáy một chút vì dưới thời thuộc trị của thực dân, nếu bị đưa vào những trại nầy thì đúng là rơi xuống hỏa ngục 9 tầng! Chính sách đánh đập, hành hạ, làm nhục không còn được áp dụng theo đường hướng nhân bản của chế độ mới ở miền Nam. Tuy nhiên chữ trừng giới vẫn được dùng để dằn mặt những kẻ lì lợm luôn có ý đồ làm những chuyện phi pháp.”

 

–” Ông Đại tá đề cập đến vấn đề phòng ngừa tội phạm trong giới thanh thiếu niên bằng phương pháp ” dằn mặt” , phải chăng đại tá muốn nói phải đưa ra những kiểu hình phạt nặng nề để phòng ngừa?”

 

–” Ở nước ta hiện nay các luật gia chuyên biện hộ những vụ hình sự thì có rất nhiều nhưng tìm cho ra một người có căn bản thâm cứu về những phương cách phòng ngừa tội phạm thì rất hiếm hoi! Tại trường Luật ở Sài Gòn, những tài liệu giảng huấn về vấn đề tội phạm trong môn Hình Luật Thâm Cứu của giáo sư Nguyễn Độ thì quá ư là hóc hiểm, càng đọc càng thêm điên cái đầu. Còn trong môn Cổ Luật Thâm Cứu của giáo sư thạc sĩ Vũ Văn Mẫu tuy cũng có đề cập tới vấn đề tội phạm và các hình phạt trong các nền pháp chế cổ xưa của nước ta nhưng cũng chỉ là những bài Sử ký đặc biệt chứ không phải là những pháp chế mẫu mực dùng để noi theo và áp dụng cho xã hội hiện tại. Hiện nay chúng ta vẫn đang tiếp tục áp dụng bộ Hình Luật Canh Cải do thực dân ban phát, một bộ Hình Luật mà ngày trước họ dùng để đàn áp và khống chế dân thuộc địa hơn là để ngăn ngừa tội phạm.

Trong thời đệ nhất Cộng Hòa, miền Nam có thêm một bộ luật mới gọi là Luật Gia Đình bãi bỏ chế độ đàn ông Việt Nam có quyền có nhiều vợ và có vẻ như là nhằm bảo vệ quyền lợi của những gia đình hợp pháp chính danh. Tuy nhiên có dư luận đồn đãi rằng tác giả của bộ luật mới nầy đã vì một ly do tư lợi, ghen tuông mà khai sinh ra bộ luật đó khiến cho mọi người đều ngao ngán và tội nghiệp cho người dân ở miền Nam lúc đó.

Rồi cũng có nghe nói tới một ủy ban soạn thảo bộ Hình Luật Mới cho miền Nam Việt Nam nhưng rồi cũng chẳng đi tới đâu! Rốt cuộc, muốn biết về tình hình tội phạm của xứ nầy chúng ta chỉ còn có nước là căn cứ theo một số tài liệu về hình sự được giảng huấn tại trường huấn luyện cảnh sát ở Vũng Tàu. Theo các tài liệu ở đó thì sự phạm pháp của nhóm tuổi từ 12 đến 18 bao gồm hầu hết các hình thức trọng tội của những kẻ tội phạm thành niên trên 18 tuổi như hãm hiếp, bắt cóc đòi tiền chuộc, buôn lậu ma túy, tổ chức cờ bạc, ổ điếm, mãi dâm. Thêm vào đó, khuynh hướng kết bè tụ đảng lại có mòi gia tăng nhanh chóng hơn là những cá nhân phạm pháp riêng rẽ một mình. Nguy hiểm hơn nữa là lứa tuổi phạm pháp càng ngày càng nhỏ lần đến một mức đáng lo ngại và đây là điểm mà các bậc cha mẹ chú bác, thầy cô cần phải quan tâm để mắt trông chừng. Bị bắt quả tang đưa về đây không thiếu gì những đứa trẻ . Thật là đáng buồn!”

 

–Hỏi: ” Về mặt hình sự, thế có nghĩa là khi đã phạm pháp thì già cả, bé lớn, đàn ông, đàn bà đều phải chịu chung một luật pháp?”

 

–” Vì ông Hoài Nam đang làm phóng sự về những đứa trẻ bụi đời và tệ nạn thanh thiếu niên phạm pháp, cho nên chúng ta chỉ nên đề cập tới những đối tượng thuộc loại nầy mà thôi. Xét về mặt tâm lý quần chúng, chúng ta không thể nào sắp xếp một cách tổng quát tất cả những thành phần thanh thiếu niên vào cùng một đẳng bậc phạm pháp. Có những đứa trẻ đi bụi đời hay bị cám dỗ theo đàng tội lỗi chỉ vì một sự trắc trở, khó khăn tinh thần nào đó: đối với loại phạm pháp nầy thì yếu tố tâm lý phải được tìm hiểu và chú tâm chửa trị cho chúng chứ không thể xử phạt một cách máy móc và đơn thuần.

Một thành phần khác nữa là những đứa trẻ chậm tiến trong vấn đề học vấn vì bị nhiễm những thói hư nết xấu từ những đứa trẻ khác ngay dưới mái trường học và do đó vai trò của các bậc thầy cô trong lớp học càng phải quan tâm ngăn chận các gương xấu đang xảy ra trong lớp học cũng như ở ngoài sân trường.

Thành phần sau cùng chúng tôi muốn đề cập ở đây gọi là thành phần bất trị bao gồm cả những đứa trẻ thường xuyên vi phạm luật lệ như ăn cơm bửa, những thành phần mất dạy cứng đầu không chịu ép mình trong khuôn khổ của gia đình. Những sự vi phạm của thành phần nầy bao gồm những trọng tội như ăn trộm, ăn cướp, xì ke ma túy hạng nặng, bài bạc chuyên nghiệp, ma cô đỉ điếm có tổ chức . . .Đây là nhóm vị thành niên đã trở thành hội viên thường trực của xã hội đen, đã từng vào tù ra khám như bắt cóc bỏ vào đĩa.

Đối với mỗi thành phần khác nhau như vừa kể, chúng ta phải có một phương cách chửa trị hoặc nghiêm trị khác nhau để áp dụng.”

 

–” Quan điểm của ông tổng giám đốc phải chăng cũng là chủ trương của Công Tố Viện ?”

 

–” Đúng như vậỵ”

 

–” Còn quan điểm của các ông thẩm phán xử án thì sao?”

 

–” Hiện nay chánh án của toà án thiếu nhi là một nữ lưu đã có nhiều năm kinh nghiệm trong việc phán xử những trường hợp thanh thiếu niên phạm pháp. Theo chúng tôi được biết thì chủ trương của người ngồi xử án có chiều hướng nghiêm trị hơn là nghiêm phạt và như thế cũng cùng chung một đường hướng với Công Tố Viện.”

 

–” Chủ trương nghiêm trị để dạy dỗ kiểu đó có hiệu quả gì không?”

 

–” Bây giờ tôi xin được phì cười một cái về câu hỏi nầy của ông ký giả! Ông Hoài Nam thấy rồi đó: nếu áp dụng luật pháp một cách mạnh bạo cứng rắn thì nhà báo của các ông sẽ chửi bới là dã man, mọi rợ, vi phạm nhân quyền, làm thương tổn nhân phẩm cá nhân! Còn áp dụng luật lệ một cách uyển chuyển thì bị mấy ông chê là bất lực không có khả năng ngăn chận tội phạm. Kết quả của chủ trương cải hóa hiện nay thật là khiêm tốn và các trại cải huấn cùng các nhà trừng giới lúc nào cũng đầy ngập mà đa số là những thành phần tái phạm bị bắt vào, thả ra không phải một, hai hoặc ba lần, mỗi lần trên dưới một năm thụ huấn mà có người vào đây đến 5 lần, 7 lượt!

Một mình chúng tôi thì sẽ không làm xuể đâu ông Hoài Nam! Xã hội của chúng ta cần hết thảy mọi người hợp lực để giải quyết tệ nạn trẻ bụi đời và thanh thiếu niên phạm pháp. Chúng ta không nên có thái độ . Cũng không thể nào cứ giữ mãi tình trạng bắt nhốt rồi thả, rồi bắt, rồi thả . . .vì như thế chỉ có thể làm chậm lại cái tệ nạn đó chứ không thể nào diệt trừ dứt gốc nó được đâu!”

 

–” Đây là câu hỏi cuối cùng: ông tổng giám đốc giải quyết như thế nào về trường hợp của hai đứa nhỏ bị lôi đi ra phòng dự thẩm hồi sáng nay?”

 

–” Theo biên bản lấy khẩu cung và bằng chứng thì hai đứa nhỏ bụi đời nầy bị quy vào tội cướp giật tài sản của dân chúng giữa ban ngày. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ đình hoãn lại vụ nầy để điều tra thêm cho rõ ngọn ngành nhất là phải mời cho bằng được bà cụ bị giựt túi xách ngày hôm đó để tới đây nhận dạng và đối chất với hai đứa nhỏ bị tình nghi rồi sau đó đích thân chúng tôi mới có quyết định truy tố hoặc miễn tộ

Còn người điều tra viên đi ngược chủ trương và đường hướng mới thì sẽ bị xét xử kỹ luật và nếu chuyện đấm đá có mòi trầm trọng thì anh ta sẽ bị truy tố về tội lạm dụng quyền lực gây thương tích cho người tình nghi phạm tội và tội vô cớ đả thương người vô tội.”

 

Bên cạnh bài phỏng vấn là một bức hình của hai đứa trẻ, một traị một gái bị còng tay dẫn ra xe bít bùng với những dòng ghi chú như sau:

 

Đây là hình ảnh của 2 đứa trẻ bụi đời đang được nhân viên thi hành công lực dẫn giao qua phòng dự thẩm toà án thiếu nhi. Vào phút chót của cuộc phỏng vấn, ông tổng giám đốc cảnh sát đã cho ký giả Hoài Nam biết rằng là việc giải giao hai đứa nhỏ sẽ đình lại để chờ điều tra thêm cũng như sẽ áp dụng chế tài kỹ luật đối với nhân viên hành sự đã lạm quyền.

 

*

 

Kim Phượng đẩy cửa tòa soạn báo Dân Tiến đi thẳng vào phòng làm việc của ký giả Hoài Nam. Tay Kim Phượng cầm một tờ báo cũ trong đó có bài phỏng vấn viên tổng giám đốc cảnh sát. Hoài Nam chưa kịp đứng lên tiếp chào thì Kim Phượng đã đặt mạnh tờ báo lên bàn làm việc rồi hỏi ngay:

 

–” Tại sao chuyện nầy xảy ra cả tháng rồi mà ông ký giả không thông báo cho tôi hay biết? Tôi đã để địa chỉ và số hộp thư riêng của tôi ở sở bưu điện cho ông, sao ông không chịu liên lạc?”

 

Người ký giả từ từ đứng lên rồi điềm đạm mời Kim Phượng ngồi xuống:

 

–” Bà Kim Phượng cứ ngồi xuống đây rồi muốn nói hay muốn lục vấn gì rồi sẽ tính sau. Tôi hơi bị bất ngờ một chút vì sự xuất hiện đột ngột không hẹn trước của bà và cũng vì vậy tôi không nhìn ra bà là ai . . . .”

 

Kim Phượng ngồi phịch xuống, giọng nói vẫn nóng nải hối thúc:

 

–” Xin ông ký giả mau cho tôi biết rõ vụ nầy ra sao rồi ? Hai đứa nhỏ đó hiện bây giờ ở đâu?”

 

Hoài Nam đặt tách trà nóng xuống bàn mời:

 

–” Mời bà Kim Phượng uống một miếng nước trà thơm cho khoẻ và tĩnh trí lại rồi chúng ta sẽ bàn chuyện . . .”

 

–” Ông tưởng tôi có thể thong dong ngồi đây uống trà trong cảnh huống như thế nầy sao?”

 

–” Tôi biết bà đang nôn nóng và lo âu, nhưng tôi cũng hơi thắc mắc: không hiểu bà Kim Phuợng có thường xuyên tới mở hộp thơ của bà ở nha bưu điện hay không? Nếu có thì bà lấy thơ lần cuối cách nay bao lâu rồi?”

 

Kim Phượng cầm tách nước trà nhắp một ngụm rồi khựng lại, mặt tỏ vẻ bối rối khi nghe câu hỏi của Hoài Nam. Mấy tuần lễ trước đây vì quá bận bịu cho nên Kim Phượng chưa kịp tới bưu điện để mở hộp thơ của mình.

Giọng nói của Hoài Nam vẫn từ tốn khi thấy được nét sượng sùng bối rối của người đàn bà đẹp ngồi trước mặt:

 

–” Tôi thì cứ đinh ninh rằng bà đã nhận được mấy lá thư báo tin của tôi đã gửi cho bà hơn ba tuần nay. Nhưng rồi lại không thấy bà điện thoại, viết thư hay đích thân tới gặp cho nên tôi nghĩ rằng chuyện của hai đứa nhỏ tôi kể trong thư không có liên hệ dính líu gì tới bà cho nên bà không còn để ý tới nữa! Cũng may là bây giờ tôi với bà mặt đối mặt chứ nếu không thì tôi cũng không còn bận tâm gì với công tác bà đã giao phó. Tấm hình của hai đứa nhỏ đăng trên báo có những nét giống như những đứa nhỏ mà bà đã mô tả với tôi trước đây, vậy bây giờ bà Kim Phượng nghĩ sao?”

 

–” Còn nghĩ gì nữa! Đúng là chúng nó rồi chứ còn ai vô đây? Có bị đưa ra tòa hay không . . ., thưa ông Hoài Nam ?”

 

–” Tình trạng của hai đứa nhỏ nầy hiện giờ ra sao thì tôi cũng không được rõ lắm. Tuy nhiên ông tổng giám đốc mới của ngành cảnh sát cũng vừa mới điện thoại cho tôi biết là cuộc đối chất giữ hai đứa nhỏ với bà cụ chủ nhân chiếc túi xách bị thằng nhỏ giật sẽ được tổ chức tái cứu tại phòng điều tra hình sự của Tổng Nha Cảnh sát vào lúc 10 giờ sáng ngày thứ sáu tới đây và tôi cũng được ông tổng giám đốc cảnh sát tỏ ý mời tới để dự kiến cuộc thẩm vấn đối chất trực diện nầy. Cũng may là bà Kim Phượng đã tới kịp chứ nếu không thì tôi cũng chẳng biết phải xử sự như thế nào đây!”

 

Kim Phượng thở phào. Nét căng thẳng trên vẻ mặt lo âu dịu xuống:

 

–” Đúng là may mắn! Tôi sẽ đi theo ông nhưng cố gắng tránh mặt dưới hình thức là thư ký của tòa soạn báo Dân Tiến. Đây là một ít tiền xin nhờ ông ký giả Hoài Nam lo dùm ngay cho bọn nhỏ một ông luật sư giỏi về hình sự ở bên cạnh chúng vào ngày tái thẩm vấn ở tổng nha cảnh sát. Tiền bạc không thành vấn đề, miễn sao hai đứa nhỏ nầy khỏi tội là được rồi. Sau nầy dù hai đứa nó không đúng là đối tượng mà tôi muốn biết tung tích thì cũng không sao. Chẳng thà nhận lầm bị tốn hao tiền bạc còn hơn là bị xẩy mất nếu đúng là chúng nó và lúc đó thì tôi lại phải ân hận bức rức ! Mong ông Hoài Nam cố gắng giúp cho trọn vẹn, tôi sẽ đội ơn ông suốt đời . . .”

 

*

 

Khi Kim Phượng đã ra khỏi cửa tòa soạn, Hoài Nam liền nhấc óng điện thoại lên, quay số. Từ đầu dây bên kia có tiếng trả lời:

 

” Allô, đây là văn phòng luật sư toà thượng thẩm Trần Thanh Bá . . .Xin lỗi chúng tôi được tiếp chuyện với ai ở đầu dây ?”

 

–” Kính chào ngài luật sư ! Con là Ký giả Hoài Nam đây ! . . .”

 

–” À! Thì ra là ông cụ ký giả Hoài Nam ! Con cũng xin kính chào cụ . . .Lâu quá không nghe được tiếng nói của cụ, con cứ tưởng cụ đã thăng về cõi tiên rồi chứ! Ngọn gió nào lại đưa đẩy cụ nhớ tới con cháu ở dưới cõi trần tục đau thương nầy vậy? . . .Lo làm giàu trên đó quên cả bạn bè phải không ? . . .”

 

–” Thôi đi Tám! Ngài luật sư bây giờ là nhất rồi! Những đứa bạn khác cùng lớp cũng thế, các ngài đứa nào cũng có xế hộp láng coóng lái chạy phây phây khắp đường phố để gù các em Sài Gòn. Chỉ có tên ký giả quèn nầy là vẫn còn lọc cọc, lạch cạch với chiếc mô bi lết (mobylette) cổ lỗ xí ! Nghề ký giả, ngài luật sư già mồm dư biết mà ! Giàu sao nổi nếu không chịu nói láo, viết tục hoặc tung tin vịt, tin giật gân để câu đọc giả! Khổ thay, nói láo không phải là nghề của cái tên Hoài Nam nầy! . . .”

 

Có giọng cười khì khì bên kia đầu dây:

 

–” Dân Sài Gòn ai còn lạ gì cái ông ký giả Hoài Nam gàn bướng? Nghèo kiết xác mà tối ngày chỉ lo viết lách ba cái chuyện nhân quyền, nhân bản. Tài sức của cụ thì ghế nầy ghế nọ trong chính phủ chỉ cần cái búng tay, gật đầu của cụ thôi chứ có khó gì cho cam! Tại cụ muốn khác đời mới phải cực thân chứ bạn bè thấy cụ như thế thì ai cũng phải lắc đầu tiếc nuối cho một nhân tài bị mai một! . . .”

 

Hoài Nam mỉm cười héo hon một mình:

 

–” Mỗi người đều có số hết đó ngài ạ! Số của thằng nầy là số con rệp! . . . Cái nghề viết lách càng đi sâu vào thì càng lậm rồi trở thành nghiện ngập còn hơn là nghiện thuốc phiện, khó mà rút chân ra !”

 

–” Sao rồi ? Có chuyện gì cần hay là chỉ gọi để rủ rê đi ra quán góc cây me nhậu rượu nếp than ăn trái cóc?”

 

–” Có chuyện phải nhờ đến cái mồm loa mép dãi, cãi chày cãi bướng của ngài luật sư. . .Số là tớ đang viết một thiên phóng sự về những đứa trẻ bụi đời và trong khi săn tin lấy ảnh thì tớ gặp được hai đứa nhỏ bị bắt về tội giật túi xách đựng tiền của một bà cụ trên đường Pasteur Sài Gòn. Khi gặp tớ, chúng kêu oan vì vậy tớ mới xin gặp mặt ông tân tổng giám đốc cảnh sát . . .”

 

Luật sư Bá ngắt lời:

 

–” Con có đọc bài báo phỏng vấn của cụ. . .”

 

–” Vậy thì ngài luật sư cũng đã biết được phần nào câu chuyện cho nên tớ khỏi phải kể lễ dài dòng thêm . . .Tớ chỉ nhờ ngài luật sư vào lúc 10 giờ sáng thứ sáu nầy tới phòng thẩm vấn ở tổng nha cảnh sát để yểm trợ cho hai bị can . . . Ngài luật sư già mồm của tôi nghĩ sao ?”

 

Tiếng trả lời bên kia đầu dây của luật sư Bá trêu chọc:

 

–” Tụi nó là đệ tử của cụ phải không? Bộ chia tứ lục hay sao mà bây giờ phải lo cho tụi nó?”

 

Hoài Nam phì cười:

 

–” Đệ tử với đệ sống cái con mẹ gì! Chia với chát, quá hơn là đầu nậu, ma cô! Chẳng qua là giữa đường thấy chuyện bất bằng mà tha, cho nên mới nổi máu quân tử Tàu mà nhảy vô chứ chẳng được cái nước dãi gì hết! Chuyện như vậy đó, ngài có giúp hay không thì nói. Sở phí cho cái óng loa của ngài sẽ được thanh toán sòng phẳng, người ta trả cho ngài thế nào thì tớ cũng sẽ trả công cho ngài y như vậy . . .”

 

–” Cụ thì lúc nào vẫn cái tật đó, lúc nào cũng sòng phẳng! Có trả nổi không? Hai chục ngàn tiền mặt đưa trước, phí tụng còn lại sẽ tính sau ! . . .”

 

–” Xong!”

 

–” Thôi đi ông nội! Ai dám lấy tiền của cụ? Đùa với cụ chút chơi đó thôi chứ tiền bạc gì? . . .Tụi mình lâu quá rồi không có ra mấy cái quán lụp xụp dưới gốc cây me để nhậu rượu nếp than, ăn khô cá đuối chấm tương ớt phải không? Vậy thì chiều mai, sau khi xong vụ nầy rồi tụi mình tái xuất giang hồ một bửa có được không?”

 

–” Được lắm! Tớ thấy cậu vẫn không có gì thay đổi nhiều. Tớ thích cậu ở điểm giàu không đổi bạn, sang không đổi ” nợ” (vợ ) mặc dù cậu đang bị thất tình, bị mang nợ vì cô tiểu gia chủ của cậu không thèm ngó tới !”

 

Khi luật sư Bá đang xếp giấy tờ hồ sơ vào tủ để chuẩn bị rời văn phòng thì ông bà đốc phủ sứ mở cửa bước vào.

 

–” Kính chào hai bác.Giờ nầy cháu tưởng hai bác đang chuẩn bị ăn cơm chiều, nhưng sao lại tới đây? Hai bác có cần cháu việc gì không?”

 

Ông đốc phủ sứ gục gật:

 

–” Cháu nói đúng lắm ! . . .Bác gái có chuyện lôi thôi với cảnh sát cho nên mới tới đây làm rộn cháu giờ nầy! . . .”

 

–” Chuyện chi vậy, thưa hai bác ? . . .”

 

Bà đốc phủ sứ hớt lời ông:

 

–” Số là . . ., cách nay chừng vài tuần, hai bác đi dạo phố ở đường Pasteur, khi tới cửa bộ Công Chánh thì có một thằng nhỏ bụi đời giựt chiếc túi da đựng tiền của bác . . . . . . Rồi chiều hôm qua, bác vừa nhận được giấy mời sáng thứ sáu nầy phải lên tổng nha cảnh sát để đối chất về vụ nầy, thiệt là bực mình quá sức. . .! Hai bác muốn có cháu cùng đi theo, không biết có trở ngại gì cho cháu hay không?”

 

–” Thưa hai bác, ngày mai thứ sáu, cháu không có vụ cãi nào ở toà cho nên không có gì trở ngạị Có một điều hơi lạ: cách đây chừng một tiếng đồng hồ, một người bạn học ở trường luật với cháu ngày trước cũng điện thoại tới nhờ cháu biện hộ cho hai đứa nhỏ bụi đời bị bắt về tội cướp giật . . .Không biết vụ nầy có liên quan gì với chuyện của bác gái vừa kể cho cháu nghe hay không ?”

 

Nói xong luật sư Bá soạn trong chồng báo cũ để tìm tờ Dân Tiến rồi trao cho ông đốc phủ sứ:

 

–” Hai bác có đọc bài phóng sự-phỏng vần của ký giả Hoài Nam đăng trên số báo nầy chưa? Bài phóng sự có đề cập tới trường hợp của 2 đứa nhỏ mà cháu vừa kể . . .”

 

Khi ông đốc phủ sứ đang nhẩm đọc bài báo thì giọng nói của bà đốc phủ sứ đã trổi lên thật gắp rút. Bà vừa nói vừa chỉ tấm hình trên mặt báo:

 

–” Đúng là tụi nó! Thằng nhỏ nầy nè, bác không lầm được đâu vì nó có cái đầu trọc lóc láng lưởng như mấy chú tiểu trong chùa vậy đó! . . .Còn con nhỏ chắc chắn là đồng bọn với thằng nhỏ vì trước đó bác thấy tụi nó ngồi chung với nhau giả bộ hát dạo kiếm tiền để theo dõi, dò la những người đi dạo phố có máu mặt. . .!”

 

Ông đốc phủ sứ ngừng đọc, nhíu mài nhìn vợ:

 

–” Bà đừng có kết luận bừa bãi. Không có thằng nhỏ đó kéo bà lại thì chiếc xe cam nhông chở hàng đã cán bà dẹp lép như tờ giấy huyến rồi! Trước khi thằng nhỏ chạy theo bà, chính tai tôi nghe con bé la lớn để báo nguy cho bà tránh khỏi bị xe đụng . . .Sự việc lúc đó xảy ra thật bất ngờ và người cảnh sát chìm đã dẫn bắt hai đứa nhỏ đi quá mau lẹ cho nên tôi không thể lên tiếng can thiệp kịp lúc để giải thích cho hai đứa nhỏ vô tội! . . .”

 

Bà đốc phủ sứ nhăn mặt lườm ông:

 

–” Ông biết gì mà nói? Chính bàn tay của nó giựt chiếc túi da đeo trên vai của tôi, bộ ông không thấy sao? . . .Cũng tại ông xài sộp móc bạc chục ra thưởng cho tụi nó khi nghe tụi nó hát bi bô bá láp cho nên tụi nó mới biết mình có máu mặt rồi rà theo thừa cơ cướp giựt. Cũng may là sợi dây da còn vướng trên vai của tôi cho nên nó chưa giựt được! . . .”

 

Nghe hai ông bà cãi vã, luật sư Bá phải xen vào để làm dịu tình hình:

 

–” Dạ thưa hai bác, chuyện nầy cũng không có gì gọi là trầm trọng lắm đâu, xin hai bác chớ có lo âu: bác gái được mời tới đối chất với tư cách là một nhân chứng mà thôi, không có sao hết. Còn chuyện của bác trai vừa kể ra thì cũng đáng chú ý vì người bạn của cháu, chính là ký giả Hoài Nam người viết thiên phóng sự, có điện thoại cho cháu rõ là 2 đứa nhỏ đó khi tiếp xúc với Hoài Nam đã lên tiếng kêu oan và nhờ anh ký giả nầy can thiệp . . .”

 

Ông đốc phủ sứ ngắt lời luật sư Bách:

 

–” Tụi nhỏ bị oan ức rõ mồn một chứ còn gì nữa mà nói tới nói lui? Chính con mắt của bác nhìn thấy chiếc xe chở hàng phóng nhanh tới mà còn ghi được số đăng ký của chiếc xe ác đức đó. Tên tài xế ẩu tả chẳng những bất cẩn mà còn lỗ mãng nữa: hắn đã ló đầu ra khỏi cửa xe nhìn lại phía sau để chửi rủa tục tằn bác gái một thôi rồi mới chịu rú ga lướt đi nhanh mất dạng! . . .”

 

Nói xong, ông móc ví da tìm một tấm danh thiếp cũ đưa cho luật sư Bá:

 

–” Đây nè, số xe của anh chàng tài xế vong mạng đó bác đã ghi lại và còn giữ tới bây giờ đó . . .”

 

–” Thưa hai bác, chuyện nầy như vậy có thể chỉ là vấn đề hiểu lầm, bắt lộn mà thôi. Nếu đúng như lời bác trai nói thì hai đứa nhỏ đó bị hàm oan! Riêng với bác gái thì cháu xin thưa như vầy: về mặt luật pháp thì người bị tình nghi luôn lôn được suy đoán là vô tội cho tới khi có đầy đủ chứng cớ để quy tội. Còn về đạo đức bác ái, nếu chuyện cướp giựt đã có xảy ra thật thì cũng xin bác gái rộng lòng nhẹ tay cho tụi nhỏ vì mình cũng chưa bị mất hao gì hết. Cháu sẽ yêu cầu tổng nha cảnh sát truy tìm anh tài xế ngông ngang kia ngay lập tức để có thêm người đối chứng. Cháu cũng xin nhờ bác trai sáng thứ sáu nầy cùng đi với bác gái và khi đến đó xin bác trai cứ kể lại những gì mắt thấy tai nghe. Riêng với bác gái vì lúc đó bị xúc động mạnh cho nên không thể phân biệt được thực hư; vậy thì ý bác gái nghĩ chuyện xảy ra như thế nào thì cứ việc nói ra y như ý bác nghĩ. Còn những chuyện khác thì hai bác cứ để cháu lo liệu. Bây giờ hai bác cứ yên tâm về ăn cơm chiều rồi nghỉ ngơi thoải mái. Biết đâu trong cuyện nầy lại có những tình tiết khác hay ho hơn . . .”

 

Prev

 

Chương 5

 

Next CHƯƠNG 6

Chương 6

Sáng ngày thứ sáu trong văn phòng tiếp khách riêng rộng lớn, uy vệ của của vị tổng giám đốc cảnh sát đã có mặt luật sư Bá, ký giả Hoài Nam. Ngồi bên cạnh ký giả hoài Nam là một người nữ thư ký của toà soạn tờ báo Dân Tiến đang ghi nhanh những câu đối đáp giữa anh tài xế và người chỉ huy ngành cảnh sát:

 

–” Ngày thứ bảy . . tháng . . .năm . . .19. . anh có lái chiếc xe cam nhông chở hàng mang số . . . . chạy trên đường Pasteur, Sài Gòn, ngang qua bộ Công Chánh không?”

 

–” Dạ thưa ông tổng ngày đó em có lái qua chỗ đó.”

 

–” Trên xe anh chở gì? Thịt lậu thuế phải không?”

 

Người tài xế tái mặt, miệng ấp úng chưa kịp trả lời thì viên đại tá chỉ huy đã tiếp lời:

 

–” Anh đừng có lấp liếm để chối quanh! Chúng tôi biết rõ mọi việc làm qua mặt luật pháp của anh từ lâu nhưng hôm nay gọi anh tới đây không phải là để bắt nhốt anh về tội buôn lậu đâu. Chúng tôi chỉ yêu cầu anh nhớ lại chuyện gì đã xảy ra khi anh phóng xe chạy quá tốc độ luật định trên con đường Pasteur ngày hôm đó? . . .Anh có nhớ ra được chuyện gì chưa? Khó nhớ quá phải không? Được rồi, chúng tôi gợi lại cho anh: khi chiếc xe của anh chạy ngang qua bộ Công Chánh, khoảng gần chùa Bà Đen, xuýt chút nữa thì anh đã gây ra tai nạn cán chết người bộ hành rồi đó! Anh nhớ không?”

 

–” Dạ . . ., có lẽ như vậy! Hình như khi đó có một bà già chạy ẩu, băng ngang qua đường mà không chịu ngó trước ngó sau. Em cố gắng đạp thắng bóp còi nhưng không còn kịp . . .Cũng may lúc đó có một thằng nhỏ chừng 11 hoặc 12 tuổi chạy theo lôi ngược bà ta trở lại chứ không thôi thì giờ nầy bà già đó đã nằm yên trong nghĩa địa rồi còn em thì có lẽ đã nằm khám Chí Hòa ăn cơm gạo lức với khô mục . . .”

 

–” Anh còn nhớ hình dạng của bà cụ đó không?”

 

–” Dạ, nếu gặp lại thì chắc em có thể nhìn ra . . .”

 

–” Còn đứa con trai anh đã đề cập tới, anh có thể nhận ra nó không?”

 

–” Thằng nhỏ đó óm tong óm teo lại có cái đầu trọc gáo dừa như các chú tiểu trong chùa, rất dễ nhận dạng. . .”

 

–” Anh chạy thịt lậu lén lút vậy mà sao còn có thời giờ nhìn mặt kẻ đi qua, người đi lại dạo phố ngày thứ bảy cuối tuần?”

 

Người tài xế đưa tay gảy đầu, miệng dẻo nhẹo:

 

–” Dạ, không dấu gì với ông tổng, lúc đó em tức quá nên có quay đầu lại chửi rủa một thôi cho đã nư giận vì vậy mới thấy rõ được mặt bà già với thằng nhỏ . . .”

 

Viên đại tá đưa tay nhấn nút tắt chiếc máy thâu băng đặt trên bàn rồi ôn tồn nói với người tài xế:

 

–” Cám ơn anh đã tới đây để khai báo. Chuyện làm ăn của anh chúng tôi thấy không có ổn rồi đó! Nhân tiện đây, chúng tôi nhắn nhủ với anh rằng anh nên chấm dứt cách làm ăn trốn xâu, lậu thuế đó đi và kiếm việc làm khác lương thiện hơn. Còn việc phóng xe ẩu tả theo kiểu của anh trên đường phố đông đúc thì chúng tôi không muốn thấy xảy ra nữa. Chúng tôi chỉ nhắn nhủ với anh như vậy, cò nghe hay không là tùy anh. Bây giờ anh chịu khó ra phòng đợi ngoài kia, khi cần chúng tôi sẽ mời anh trở vào đây nữa, có được không?”

 

Người tài xế khúm núm đứng lên:

 

–” Dạ thưa đại tá được. Em tạm chào đại tá, chào quý thầy, cô . . .Tui xin tạm kiếu để ra ngoài kia ngồi chờ.”

 

Viên tổng giám đốc quay sang ký giả Hoài Nam và luật sư Bách:

 

–” Các ông nghĩ thế nào ?”

 

Cả hai đều yên lặng nhìn viên chỉ huy trưởng trẻ tuổi rồi mỉm cười chờ đợi.

 

–” Các ông thấy không, đây không phải là một phiên tòa chính thức nhưng lại có nhiều luật gia tiếng tâm sừng sõ hiện diện và rốt cuộc rồi nội vụ kể như đã được giải quyết hơn 90% trước khi chúng ta dùng miệng lưỡi để cãi vã đấu lý với nhau phải không?”

 

–” Dạ đúng . . .”

 

–” Dạ không sai . . .”

 

Viên tổng giám đốc chậm rãi đứng lên tiến về phòng dành riêng cho khách ngồi chờ rồi mở cửa:

 

–” Xin mời ông bà Trần Kim Quy vào . . .”

 

Mặt người nữ thư ký tòa soạn báo Dân Tiến tái xanh khi nhìn thấy hai ông bà đốc phủ sứ bước vào rồi đến ngồi cạnh luật sư Bá: người thư ký nầy là một người trẻ đẹp, thân hình cân đối hấp dẫn nhưng nét trang điểm lại có vẻ hơi đi quá đà một chút khiến nét đẹp trở thành giả tạo giống như khuôn mặt của các cô gái Geisha Nhật Bản. Từ lúc mới vào hợp mặt, luật sư Bá đã cố tình nhìn thẳng trực diện với người nữ thư ký nầy như muốn dò xét, nhận dạng nhưng cứ mỗi lần như thế thì người đàn bà đó lại cúi gằ mặt xuống hoặc quay đi hướng khác. Bây giờ, với sự hiện diện bất ngờ của của ông bà đốc phủ sứ người đàn bà trẻ đẹp đó lại vội vã thay đổi thế ngồi như muốn né tránh chạm mặt. Rồi giọng của viên đại tá lại trổi lên:

 

–” Chúng tôi giới thiệu cùng ông ký giả Hoài Nam đây là ông bà đốc phủ sứ Trần Kim Quy. Riêng với ông luật sư thì chúng tôi xin miễn khỏi giới thiệu vì cùng là người nhà mà cũng là luật sư riêng của hai ông bà Trần Kim Quy. Chúng tôi mời ông bà đến đây để được nghe kể lại việc gì đã xảy ra vào xế trưa ngày thứ bảy . . .tháng . . năm 19. . . trên đường Pasteur, trước cổng ra vào của bộ công chánh. Chúng tôi xin nói rõ là bà đốc phủ sứ tới đây để giúp chúng tôi hoàn tất thủ tục tố tụng của một vụ hình sự chứ không có một mục đích nào khác hơn, xin bà an tâm . . .”

 

Bà đốc phủ sứ đưa mắt nhìn luật sư Bách như muốn hỏi ý kiến và khi thấy luật sư Bá gật đầu thì bà bắt đầu kể lại câu chuyện:

 

–” Sáng thứ bảy hôm đó chúng tôi đi dạo phố . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Khi tôi băng qua đường thì có một thằng nhỏ đầu trọc khoảng chừng mười một, mười hai tuổi rượt theo rồi giựt chiếc túi da đựng tiền của tôi. Tôi la lên cầu cứu và may mắn lúc đó có một thầy cảnh sát thường phục chạy nhanh tới bắt được thằng nhỏ rồi bắt luôn đứa con gái tòng phạm của nó đẩy vô xe bít bùng giải về bót cảnh sát”

 

Luật sư Bá hỏi:

 

–” Bác gái có còn nhớ mặt thằng nhỏ và đứa con gái đó không?”

” Có chớ! Làm sao bác có thể quên được mấy cái bộ mặt ăn cướp, giựt tiền của bọn nó ! Hình của chúng sờ sờ, có đăng trên báo chí ai mà không biết ? . . .”

 

–” Lời khai của bà đốc phủ sứ có đầy đủ và xác thật không? Theo ý nghĩ của bà thì thằng nhỏ đó có phải là một tên cướp giựt giữa thanh thiên bạch nhật hay không? Bà có bao giờ nghĩ rằng nó muốn cứu mạng sống của bà không?”

 

–” Ông tổng giám đốc hỏi ý kiến của già nầy nghĩ sao về thằng nhỏ đó? Còn phải hỏi gì nữa! Bọn nó là hạng cuớp giựt nhà nghề mà! Chúng giả dạng đi hát dạo để rình mò những người đi chơi phố có máu mặt rồi ra tay. Nó muốn cứu mạng cho tôi? Ăn thua gì mà tự nhiên nó lại thí cái mạng cùi của nó để cứu mạng cho bà già nầy? Mà tôi có sao đâu để phải cần tới sự tiếp cứu của bọn giang hồ lãng tử đó mới được chứ !”

 

Viên tổng giám đốc mỉm cười nhìn mọi người trong phòng rồi đáp:

 

–” Cám ơn bà đốc phủ sứ. Lời khai của bà như vậy là quá đủ.”

 

Tiếp theo, sau khi thu băng lời khai và ý kiến của ông đố phủ sứ viên đại tá lại lên tiếng:

 

–” Bây giờ chúng tôi mời hai ông bà đốc phủ sứ nghe lại một đoạn hỏi và đáp trong cuộn thu băng nầy giữa chúng tôi với một nhân chứng khác rồi sau đó chúng tôi sẽ hỏi thêm ý kiến của bà đốc phủ sứ.”

 

Khi cuộn băng phát thanh lại cuộc chất vấn người tài xế vừa dứt thì bà đốc phủ sứ không cần đợi hỏi đã lên tiếng ngay:

 

–” Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mà cũng chưa bao giờ hay biết gì về cái tên tài xế ác nhân thất đức đó! Mà cái bà già nào bị tên đó chửi rủa cũng không ăn nhập gì tới bà già nầy hết! Nó khai là còn nhớ rõ mặt mũi của bà già đó thì ông tổng giám đốc hãy lôi bà ta tới đây mà đối chứng với thằng cha tài xế dị họm kia chứ mặt già nầy thì nhất định là không đúng rồi đó ! . . .”

 

Viên đại tá nhậ nút chuông dưới gầm bàn làm việc: một cảnh sát viên mở cửa phòng, dắt theo người tài xế.

 

Vừa thấy mặt bà đốc phủ sứ người tài xế đã trố mắt ngạc nhiên rồi vừa đưa tay chỉ về hướng bà đốc phủ sứ đang ngồi vừa hô lớn, không đợi tới phiên được hỏi:

 

–” Đó . . .Là bà già bửa hôm đó! Cũng đầu tóc bạc hếu cắt ngắng, cũng cái áo dài nhung xanh y chang như vậy . . .”

 

–” Anh có chắc là bà nầy không ?”

 

–” Thưa ông tổng, em chắc mẻm trăm phần trăm . ..”

 

Bà đốc phủ nổi nóng đứng rột dậy hét lớn:

 

–” Ê, chú nói cái gì? Chú là ai và lấy quyền gì mà vô đây chỉ trỏ điểm mặt bà già nầy? Chú chắc chắn cái gì? Muốn nhìn mặt phải không? Bà già nầy làm gì mà chú nhìn tới nhìn lui giống như bao bố nhìn mặt của tụi Tây hồi trước vậy?”

 

Quay sang viên đại tá, bà gằn giọng:

 

–” Đây có phải là cái người tài xế ẩu tả đối đáp trong máy thâu băng đó không? Ở đâu tự dưng ông Tổng lôi hắn ra đây để vu oan giáng họa cho già nầy vậy?”

 

Luật sư Bá đứng lên nói nhỏ mời bà đốc phủ sứ ngồi xuống rồi ôn tồn giải thích:

 

–” Cháu xin bác gái bớt nóng giận. Đây chỉ là một hình thức đối chất vô hại, bác gái hãy yên tâm. Mọi việc bây giờ xin bác cho phép cháu cùng với ông tổng giám đốc giải quyết . . .”

 

Luật sư Bá quay sang xầm xì bàn bạc hồi lâu với viên tổng giám đốc và ký giả Hoài Nam. Rồi viên tổng giám đốc lại bấm nút chuông dưới bàn làm việc của mình: hai đứa trẻ một gái, một trai, dáng dấp cao xuýt soát nhau được viên cảnh sát đưa vào vào phòng. Chúng ngơ ngác nhìn khắp phòng rồi mỉm cười gật nhẹ đầu chào mọi ngườị Chúng ăn mặc sạch, gọn, tươm tất. Da thịt của chúng có vẻ hồng hào tươi mát. Tay chân chúng thoải mái, tự do, không bị trói buộc hay còng xích.

 

Giọng nói của bà đốc phủ sứ lại trổi lên thật gấp rút:

 

–” Đó . . .Chính là tụi nó đây nè! Thằng ăn cướp với con nhỏ a tòng của nó đó ! . . .”

 

Ông đốc phủ sứ đè nhẹ tay lên vai bà để ra hiệu cho bà hãy yên lặng ngồi xuống trong khi viên đại tá chỉ huy trưởng hỏi người tài xế:

 

–” Phải thằng nhỏ nầy không?”

 

–” Dạ đúng là nó! Cái đầu trọc của nó em nhớ rõ lắm! ”

 

Người nữ thư ký tòa soạn báo Dân Tiến nhìn sững hai đứa trẻ, không còng thiết tha gì đến chuyện ghi chép nữa.

 

Chờ cho hai đứa trẻ ngồi ngay ngắn xuống ghế, viên tổng giám đốc bắt đầu hỏi thằng nhỏ:

 

–” Tên họ của cháu là gỉ”

 

–” Dạ tên là Hùng Cường Nhí”

 

–” Tên gì lạ vậy?”

 

–” Dạ thưa đây là cái tên mới của trại cô nhi Long Thành đặt cho cháu. Ngày trước tụi bụi đời gọi cháu là Hùng Chửi Thề vì hồi đó cháu hay chửi thề trong lúc nói chuyện. Sau nầy khi ở trại Long Thành, vì thấy cháu hay hát nghêu ngao nên họ mới lấy tên của chú ca sĩ Hùng Cường mà gán đặt cho cháu vì vậy bây giờ cháu mới có cái tên là Hùng Cường Nhí đó bác tổng . . .”

 

Có tiếng nói của đứa con gái xen vào:

 

–” Dạ thưa bác tổng, nó là em ruột của cháu và tên là Nguyễn Phượng Hoàng. Còn cái tên Hùng Cường Nhí chỉ là biệt hiệu giởn chơi đặt cho nó mà thôi! . . .”

 

Viên tổng giám đốc gật gù mỉm cười còn thằng nhỏ thì nhíu mài nhìn đứa con gái lòng đầy hoang mang thắc mắc.

 

–” Bây giờ cứ gọi em là Hùng Cường Nhí được không?”

 

–” Dạ được, gọi như vậy cháu chịu lắm!”

 

–” Ba tuần lễ vừa qua cháu làm gì? Ăn đâu, ở đâu?”

 

–” Dạ thưa bác tổng, cái chỗ ở mới nầy của cháu thì thoải mái và sung sướng hơn trăm lần ở trại cô nhi Long Thành đó bác tổng! Nhưng có điều khổ là Nhí bị bắt buộc ôm cập táp, ôm sách vở tới trường để đi học mỗi ngày thì thiệt là mệt! Cháu bỏ lâu không rớ tới sách vở, không học hành, viết lách, làm toán cộng, trừ, nhân, chia, bây giờ bắt đầu làm lại nữa cho nên cháu ngán quá trời đất, muốn nhảy rào bỏ chạy đi chỗ khác cho yên thân nhưng tại còn chị Hai cho nên cháu phải cắn răng chịu đựng ! . . .”

 

–” Trước đây khi trốn ra khỏi trại cô nhi Long Thành em làm gì để sống?”

 

–” Dạ đi hát dạo.”

 

–” Cháu còn nhớ bà nầy không?”

 

Thằng nhỏ đưa mắt nhìn qua bà đốc phủ sứ:

 

–” Dạ nhớ chớ! Quên sao được! Ngày xưa khi cháu còn đi bụi đời, mấy tên đại ca của cháu thường dạy khôn cháu rằng Cứu vật, vật trả ơn; cứu nhơn, nhơn trả oán! Cháu không chịu nghe theo lời dạy khôn của tụi nó mà lại đi cứu cái bà vô ơn kia đang ngồi đó cho nên mới bị bắt vô đây làm bị cát cho mấy thầy ba luyện vỏ Thái Lan!. . .”

 

Bà đốc phủ sứ gầm gừ muốn đứng lên để tra đũa tay đôi với thằng nhỏ ” láo xược” nhưng ông đốc phủ sứ đã kịp thời kiềm giữ bà ngồi yên tại chỗ.

 

–” Hiện giờ cháu ở đâu? Và với ai?”

 

Nó chỉ tay qua đứa con gái:

 

–” Cháu nhờ có chị Hai của cháu nên cũng được đưa vào sinh sống trong khu nội trú của cái trường quốc gia nghĩa tử gì đó . . .Không biết chị Hai cháu có công trạng gì hay không nhưng vì cháu đi theo dựa hơi chị Hai nên cũng được cho tá túc ở chỗ đó . . .”

 

Nghe thằng nhỏ kể lể mọi người đều tủm tỉm cười chỉ trừ có bà đốc phủ sứ vẫn còn nhăn nhó bực dọc.

 

Ký giả Hoài Nam và người nữ thư ký tòa soạn có vẻ bị bất ngờ và ngạc nhiên khi biết được nếp sinh sống mới của hai đứa trẻ và vì thế cả hai người đều đưa mắt hướng nhìn viên tổng giám đốc cảnh sát như muốn được giải thích.

 

Hiểu ý, viên tổng giám đốc trẻ tuổi mỉm cười đưa tay ra hiệu ngụ ý bảo họ hãy kiên nhẩn chờ tới hồi kết thúc cuộc đối chất.

 

–” Bây giờ cháu còn muốn đi bụi đời nữa không?”

 

Thằng nhỏ đưa tay lên sờ cái đầu trọc của nó, giọng ấp úng:

 

–” Dạ thưa bác tổng, cháu thấy học hành sao mà cực khổ quá chừng, không biết cháu có theo nổi hay không . . .Tuy nhiên, bây giờ cháu có chị Hai ở đây cùng chết sống có nhau thì ăn thua chị ấy quyết định . . .Chị ấy bảo cháu làm gì thì cháu sẽ nghe theo như vậy ngoại trừ . . . chị đừng bắt cháu phải ra tay cứu người hay làm ơn cho ai nữa hết! . . .”

 

–” Thôi, hỏi em như vậy là đủ rồi. Bây giờ để ông luật sư nầy nói chuyện với cháu.”

 

Luật sư Bá mỉm cười nhìn thằng nhỏ:

 

–” Chào em Hùng Cường Nhí. Chú là Luật sư Bách. Có người yêu cầu chú tới đây ngày hôm nay để biện hộ cho em và chị của em. Vậy thì Hùng Cường Nhí có bằng lòng để cho chú biện hộ cho Nhí không?”

 

Cả hai ông bà đốc phủ sứ đều ngạc nhiên nhìn người luật sư trẻ. Họ tưởng mình nghe lầm hoặc là luật sư Bá nói lộn.

 

–” Dạ thưa chú luật sư, cháu cám ơn chú luật sư và vị ân nhân nào đó có lòng tốt mướn chú luật sư để bênh vực cho hai chị em của cháu khỏi bị hàm oan. Mà đúng ra thì tụi cháu đâu có tội gì cho cam! . . .”

 

Rồi nó đưa tay chỉ viên tổng giám đốc cảnh sát:

 

-” Ngay cả vị quan lớn nầy cũng đã nói là tụi cháu bị hiểu lầm, bắt lộn, bị ăn đòn oan và vì thế để đền bù lại phần nào, vị quan nầy tha tụi cháu ra ngay mà còn lo cho tụi cháu có chỗ ăn ở học hành chu đáo suốt mấy tuần nay . . .”

 

Giọng của luật sư Bá phấn khởi:

 

” Tốt quá! Được vậy thì chú mừng cho em và chị của em. Em nên cám ơn ông tổng giám đốc cảnh sát vì ông đã sáng suốt xử sự công minh giúp cho người ngay khỏi bị hàm oan . . .”

 

Thằng nhỏ đứng lên cúi đầu xá lạy viên tổng giám đốc:

 

–” Con cám ơn ông tổng sáng suốt phân minh như ông Bao Công ngồi xử án ngày xưa, thấu rõ được nỗi oan ức của tụi con. . .”

 

Nó hướng về phía ký giả Hoài Nam, nói tiếp:

 

–” Con cũng cám ơn ông thợ chụp hình ngồi kia đã tạo dịp may cho con nói ra tất cả sự thật để mọi người đều thấy là tụi con không phải là thành phần xấu xa bất lương. Ông thợ chụp hình còn chịu khó mất thời giờ chạy chọt để gở rối cho tụi con nữa.. .Con cũng cám ơn chú trạng sư và nhất là vị ân nhân nào đó đã gởi chú trạng sư tới đây để bênh vực cho những đứa trẻ thân cô thế cô . . .”

 

Nó hướng về phía ông đốc phủ sứ:

 

–” Con cũng không dám phủi ơn ông bác đã rũ lòng thương mà thưởng tiền thật hậu hĩ ngày tụi con hát dạo trên lề đường gần chùa Bà Đen Sài Gòn . . .”

 

Cuối cùng thằng nhỏ hướng cái nhìn của nó về phía bà đốc phủ sứ, ngập ngừng một hồi rồi lại mở lời:

 

–” Con cũng phải cám ơn luôn cái bà già ngồi kia vì nhờ bà mà con mới được mở mắt để mà thấu hiểu cái câu CỨU VẬT THÌ VẬT TRẢ ƠN, CỨU NHƠN THÌ NHƠN LẠI TRẢ OÁN . . .Kể từ nay, ai ra sao mặc kệ, thằng nhỏ nầy sẽ không bao giờ vương vấn hay động lòng ra tay nghĩa hiệp xả thân mình để cứu vớt! . . .”

 

Thằng nhỏ ngừng nói và ngồi xuống đã lâu nhưng cả phòng vẫn còn yên lặng như tờ. Mọi người đều bất ngờ vì những lời nói cuối cùng của nó. Nó ít học, nó bụi đời, nó ăn nói thẳng thừng phang ngang, nghĩ sao nói vậy nhưng nó biết phải quấy, biết nhân nghĩa khiến cho những người lớn có học thức, có danh phận đang ngồi trong phòng nầy tưởng mình như những người mù vừa được một thằng nhỏ ” vô loại” khai thông cho sáng mắt ra.

 

Mỗi người ngồi đó tự suy tư, tự vấn lương tâm mình để xem mình là ai, là hạng người gì trong cái xã hội hỗn man vô trật tự nầy? Và rồi không cần bảo nhau mọi người đều hướng mắt về phía đứa con gái đang ngồi.

 

Giọng nói của viên tổng giám đốc cảnh sát lại cất lên phá tan bầu không khí ngột ngạt trong căn phòng:

 

–” Thế nào? Em có được khoẻ không? Chân trái bị thương bây giờ ra sao rồi ?”

 

Đứa con gái trả lời thật nhẹ, thật hiền, thật chậm:

 

–” Dạ thưa bác tổng giám đốc, cháu khỏe và đi đứng vững vàng rồi! Đội ơn bác tổng giám đốc đã chăm lo săn sóc cho cháu và em trai của cháu . . .”

 

–” Tốt lắm! . . .Bây giờ tôi nhờ em trả lời thật rõ ràng, chính xác những câu hỏi của tôi giống như lần trước em đã trả lời cho tôi đó, em có đồng ý không?”

 

–” Dạ thưa được.”

 

–” Tên họ của em là gỉ”

 

Đứa con gái nhìn quanh căn phòng, từng người một. Mắt của em sáng rự khi em bắt gặp điệu nhìn sửng sờ của người nữ thư ký tòa soạn báo Dân Tiến. Em mỉm cười thật tươi và gật nhẹ đầu chào hỏi, quên lửng đi câu hỏi của viên đại tá quyền uy.

 

–” Coi kìa! tôi đang hỏi tên họ em là gì, sao em chưa chịu trả lời ? . . .”

Mắt của đứa con gái vẫn không rời hình bóng của người nữ thư ký:

” Dạ thưa, cháu tên là Uyên . . .”

 

Mọi người đổ dồn mắt nhìn về phía người nữ thư ký : người đàn bà trẻ đẹp nầy tự dưng xô ghế đứng rột dậy. Mồ hôi trên trán rịn xuống làm cho lớp phấn dầy thoa mặt bắt đầu nhoè trôi và rơi lã chã thành từng đóm trắng đục trên nền thảm. Trong khi người nầy còn đang trong tư thế nôn nóng chờ đợi thì viên đại tá lại hỏi tiếp:

 

–” Tên em là Uyên, còn họ và chữ lót của em là gì ? Cha mẹ em là ai? Hiện giờ họ ở đâu? Em có thể nói rõ cho tôi biết với, được không?”

 

Mắt vẫn không rời hướng cũ, đứa con gái trả lời:

 

–” Dạ thưa tên đầy đủ của cháu là Nguyễn Phượng Uyên và mẹ của cháu là . . .”

 

Tiếng la hớt hải của người nữ thư ký cắt ngang câu trả lời của đứa con gái:

 

–” Trời ơi! Có đúng là Nguyễn Phựng Uyên không ? . . .Còn mẹ của em là ai ? Nói, nói mau ? . .Cha em là ai ? . . .Nói . . .Nói lẹ lên đi . . .Trời ơi ! . . .”

 

–” Cha của cháu là Nguyễn Ngọc Uy, sĩ quan trong quân đội nhưng đã bị tử trận ngày cháu còn trong bụng mẹ. Còn mẹ của cháu là một người trẻ đẹp, con gái duy nhất của một gia đình giàu sang quyền quý nổi tiếng ở Sài Gòn . . .Mẹ của cháu tên là . . .Trần Kim Phượng . . .”

 

Căn phòng bổng trở thành huyên náo ồn ào bởi những câu hỏi ơi ới của nhiều người phát ra cùng một lúc:

 

–” Cái gì ? . . .Trời ơi! Nó đó! . . .Cháu ngoại của mình đó ông ơi !. . .”

 

–” Hả ? . . .Nguyễn Phượng Uyên. . .Nguyễn Ngọc Uy . . .Trần Kim Phượng ? . . .Là nó đây rồi ! . . . Trời ơi! Mình gặp nó trên đường đi Tân Uyên vậy mà u mê không thể nhận được là nó! Trời ơi! Thật khốn khổ cho con nhỏ! . . .”

 

–” Bà ơi coi kìa! . . .Cái cô thư ký! . . .Là nó đó bà ơi! . . .Là con Kim Phượng của nhà mình! . . .Trời Phật ơi! . . .Thực hay mơ? . . . Cái kiến của tôi đâu rồi ? . . .Bà ngó cho kỹ coi tôi có bị mờ mắt rồi nhìn lầm ngó lộn hay không? . . .”

 

Luật sư Bá đã bỏ chỗ ngồi chạy tới ôm hai vai Phượng Uyên rồi hối thúc:

 

–” Em nói gì? Em tên là Nguyễn Phượng Uyên?”

Phượng Uyên ngơ ngác trả lời:

 

–” Dạ thưa chú luật sư, tên của cháu là như vậy đó! Tại sao ai ai cũng xúm lại hỏi tên cháu làm chi vậy?”

 

–” Cha em là Nguyễn Ngọc Uy, sĩ quan tử trận?”

 

–” Dạ phải .”

 

–” Còn mẹ của em là Trần Kim Phượng bây giờ ở đâu ?”

 

Có tiếng trả lời thật vang dội từ phía ký giả Hoài Nam đang ngồi:

 

–” Mẹ của nó, Trần Kim Phượng là ở đây, là chính tôi đây . . .”

 

Tất cả người trong phòng đều ngồi ngây ra bất động, như bị chích thuốc tê tại chỗ. Họ há hốc quay nhìn về hướng người nữ thư ký toà soạn báo Dân Tiến: lớp phấn dầy đã được lau sạch để lộ ra một khuôn mặt xinh tươi của một người đàn bà trung niên từng trải. Người đàn bà đó là Trần Kim Phượng, là con gái độc nhất của ông bà đốc phủ sứ Trần Kim Quy, là mẹ ruột của Nguyễn Phượng Uyên.

 

Sự thể xảy ra thật bất ngờ khiến cho luật sư Bá và ông bà đốc phủ sứ đứng chết lặng đi và chỉ còn biết sững sờ trố mắt chờ đợi .

Kim Phượng đã ra đứng sát cạnh Phượng Uyên. Hai mẹ con giống nhau như khuôn đúc và đứng gần nhau người ngoài sẽ tưởng rằng đó là 2 chị em ruột vì nét mặt và dáng người của Kim Phượng vẫn còn tươi trẻ và đầy mạch sống.

 

Phượng Uyên không khóc mà lại cười, cười thật tươi khi được Kim Phượng ôm vào lòng.

 

–” Trời đất ơi! Thiệt vậy sao ? . . .Cô đẹp như vây mà lại là mẹ của cháu ? Cô nói thật hay chỉ muốn chọc cháu ? . . .Sao tự dưng có chuyệ kỳ cục như vậy ? . . .”

 

Kim Phượng mở ví cầm tay, móc ra một chiếc gương soi nhỏ:

 

–” Đây nè, soi kiếng đi! Cái mặt đó với cái mặt nầy khác nhau ở chỗ nào, có trật ở chỗ nào ? Soi đi! ngắm đi ! . . .”

 

Bây giờ Phượng Uyên mới bắt đầu khóc. Kim Phượng cũng khóc mà cũng có tiếng khóc rắm rứt của ông bà đốc phủ sứ hòa theo .

Rồi có tiếng nói run rẩy, lắp bắp đứt đoạn của ông đốc phủ sứ rầm rì bên tai của Phượng Uyên:

 

–” Ông đây nè! Ông là ông ngoại của con và đây là bà ngoại của con đó . . .Cám ơn trời Phật đã cho già nầy tìm lại được con cháu . . .”

 

Thế nhưng, Kim Phượng bổng đứng thẳng dậy hùng hổ hất mạnh vòng tay của cả hai ông bà đốc phủ sứ đang ôm vòng đứa cháu và đứa con:

 

–” Đứa con gái nhỏ nầy, đứa nhỏ lạc loài nầy không là gì của ông bà hết! Mẹ của nó cũng không còn liên hệ gì với ông bà nữa ! . . .Ông bà làm gì lại có một đứa cháu ngoại ăn mày ăn xin như vầy ? Cháu của ông bà mà bị cù bơ cù bấc như vậy sao? Trên đời nầy có ông bà nào lại đi bỏ tù con cháu của mình? Còn ai là con của ông bà? Ông bà có nằm mơ, có chiêm bao hay không? Thử hỏi có ai giàu sang tột đỉnh mà nở để cho con gái của mình phải ba chìm bảy nổi tứ phương suốt mười mấy năm trời hay không? . . . .Đứa con gái nhỏ nầy được sinh ra trong cảnh nghèo hèn đơn côi nhưng nó đưọc tràn đầy tình thương của cha cha mẹ nó ngày từ lúc nó mới tượng hình. Nó không cần cái gia tài đồ sộ sụp nứt, đõ vách của ông bà ngoại nó. Nó chỉ cần tình mẩu tử, nó chỉ biết bôn ba khắp cùng để tìm kiếm mẹ nó chứ không cần chạy tới cái cư dinh giàu sang của ông bà ngoại của nó . . .Yêu cầu ông bà đừng mưu toan đưa đẩy nó vào vòng kiềm tỏa khắt khe theo cái chế độ phong kiến lỗi thời mà ngày trước ông bà đã bắt mẹ nó phải gánh chịu . . .”

 

Kim Phượng đẫm tràn nước mắt và cảm thấy sôi sụt căm hận. Máu từ khắp châu thân như đõ dồn hết lên mặt. Nỗi u uất của mười mấy năm đoạn trường giờ đây bừng trỗi dậy như những cơn lũ lụt tàn phá và đã biến thành những câu nói xỉa xoáy, đắng cay, chua xót, châm chọc có sức bén nhọn đâm lủng màn tai, màn óc của hai đấng bậc sinh thành già nua !

 

Khi phản ứng của Kim Phượng gần tới mức quá đà bất hiếu thì luật sư Bá đã ra đứng chen vào giữa hai bên rồi lên tiếng:

 

–” Chào cô gia chủ nhỏ . . .Cô chủ nhỏ còn nhớ tôi không ?. . .”

Kim Phượng trừng mắt thật dữ dằn:

 

–” Ai là cô chủ nhỏ của ông? Ông là cái gì mà tôi phải nhớ? Tôi nhờ người ta mướn ông ra đây để biện hộ cho hai đứa nhỏ, ông lại phản thùng đi theo phe nhân chứng để buộc tội người ta! Ông là luật sư có tên tuổi tiếng tâm ở Sài Gòn mà lại làm ăn theo kiểu đó hay sao? Ông theo phe đó để chống lại hai đứa nhỏ có phải chỉ vì họ nhà giàu trả tiền cho ông nhiều hơn phải không? . . .Đã vậy thì tôi không cần tới ông nữa, để tôi đi tìm luật sư khác biện hộ cho hai đứa nó . . .”

 

Luật sư Bá mỉm cười nhẹ nhàng:

 

–” Cô chủ nhỏ nói hết chưa? Bây giờ cô chủ có chịu nghỉ hơi một chút để nghe người khác nói không? Chịu rồi phải không? Vậy thì tốt lắm ! . . .”

 

Mọi người ngồi yên, lắng đợi nhưng luật sư Bách không nói gì thêm mà lại kề tai rầm rì nhỏ to với Kim Phượng:

 

–” Phượng không nhận ra Bá thật sao?”

 

Giọng Kim Phượng dịu xuống:

 

–” Biết rồi ! . . .”

 

Luật sư Bá lại tiếp tục xì xầm nhỏ to với Kim Phượng một hồi lâu nữa rồi mới quay lại chỗ ngồi của mình xách chiếc cập da dầy cợm, quay trở lại chỗ Kim Phượng đang đứng để lấy ra mười mấy tờ báo cũ đưa cho Kim Phượng đọc: đó là những tờ báo có đăng các bản nhắn tin tìm con và cháu của ông bà Trần Kim Quy suốt mười mấy năm qua. Rồi Kim Phượng cũng được đọc những bản di chúc trong đó ông bà đốc phủ sứ đã chuyển hết di sản của họ qua cho Kim Phượng và cháu ngoại của họ.

 

Kim Phượng bắt đầu khóc, khóc thật lớn nhưng rồi bất thần đứng bật dậy thật mạnh bạo quơ tay quăng vung vẩy tứ phía những tờ báo và những bản di chúc:

 

–” Láo khoét! . . .Giả hình! . . .Đạo đức giả ! . . .Ai cần đám người ác độc đó chứ ? . . .”

 

Ông đốc phủ sứ mặt buồn hiu. Ông không khóc tức tửi như bà đốc phủ sứ nhưng chỉ yên lặng đứng lên bước ra chỗ Kim Phượng đang đứng với luật sư Bách rồi lụm khụm quỳ xuống nền thảm để mò tìm thu lượm lại những giấy tờ, báo chí tung tóe khắp cùng. Hình hài yếu gầy không gượng nỗi với tuổi đời chồng chất cho nên ông đốc phủ sứ bị nghiêng ngừa té lăn mấy lần trên mặt thảm! Tình cảnh của ông thật thê lương! Thân già cằn cỗi đang bò lê dưới chân của đứa con mình giống như một con hùm thiêng bị sa cơ thất thế đang lăn lộn dưới gót chân của người thợ săn vô tình! Còn cảnh nào xót xa hơn? Còn nỗi ô nhục nào có thể sánh bằng? Còn sự nhẫn nại, còn sự chịu đựng nào để so đo ? Ngày xưa hình ảnh đó oai phong, uy vệ ngồi trên bệ cao để ra lệnh, để hò hét, để xử phạt, để làm cho mọi người phải khiếp vía và thử hỏi ngày xưa đó có mấy ai có thể làm cho người đàn ông tóc bạc gia nua kia phải khuất phục, phải mềm lòng quỵ lụy ?

 

Chỉ có đứa con gái của ông là một kẻ độc nhất vô nhị trên đời nầy cho ông nếm mùi quỵ lụy và bẻ gập đầu gối của ông phải quỳ xuống!

 

Có đứa con nào vô tình đến mức độ không biết xót xa khi nhìn thấy cha mẹ mình vì quá thương con mà phải chịu nhục nhã ương hèn như thế đó ?

 

Phượng Uyên khóc rống lên rồi chồm tới ôm chầm lấy ông đốc phủ sứ đang lăn lóc trên sàn nhà:

 

–” Ông ngoại ơi! . . .Ông ngoại! . . .Đừng quỳ, đừng bò lê bò lết như vậy ông ngoại ơi! . . .Con đây nè! Con là Uyên, là cháu của ông ngoại đâỵ . . .Con lạy ông ngoại, xin ông ngoại đứng lên. . .Đừng làm như vậy, tội lắm ngoại ơi! . . .Ông để đó cho con, để đó, con lượm lại hết cho ngoại . . .”

 

Tới phiên Kim Phượng cũng khóc ngất tức tửi rồi ào theo Phượng Uyên để ôm chầm cả hai ông bà vào lòng:

 

” Con lạy ba, con lạy mẹ, con bất hiếu mất dạy khiến cho ba sầu khổ quỵ lụy và làm cho mẹ phải sót dạ mòn mõi ngóng trông. . . .Xin Ba mẹ hãy thứ tha cho con . . .”

 

Ánh nắng sáng rực từ bên ngoài bỗng nhiên lùa vào tràn ngập căn phòng làm việc của viên tổng giám đốc cảnh sát. Từ hướng nhà thờ Huyện Sĩ, tiếng chuông ngân vang từng chập để nhắc nhở những con chiên ngoan đạo giờ nghiệm kinh, cầu nguyện thống hối để xin ơn trên giảm bớt phần sầu khổ cho con người trên cõi đời tạm bợ phù du.

 

Có một thằng nhỏ đơn côi, mặt buồn hiu đang rón rén mở cửa căn phòng tiếp khách của viên cảnh sát trưởng rồi biến mất dạng ra ngoài !

Prev

CHƯƠNG 7

Chương Kết

Tôi đến tư dinh của ông bà đốc phủ sứ Trần Kim Quy vào một buổi tối thứ bảy mùa Hè năm 1972 để dự tiệc ăn mừng đứa cháu gái của ông bà thi đậu vào trường đạị học dược Khoa. Tôi đang lửng thửng đi song hành nói chuyện với ông đốc phủ sứ thì vợ chồng luật sư Bá từ phía sau lưng gọi tới:

 

–” Anh Hoài Nam ơi, Ba ơi . . .vào đây mau lên, có chuyện này hay lắm .. .”

 

Tôi bắt tay chào luật sư Bá rồi quay sang người vợ:

 

–” Kính chào bà luật sư . . .”

 

Người đàn bà trẻ đẹp lộng lẫy mỉm cười đáp lại với giọng nói thật ngọt ngào:

 

–” Thôi mà anh Hoài Nam! Tội nghiệp em lắm! Gọi bà nầy bà nọ là em thấy khó chịu quá đi! Cứ gọi bằng tên có được không? . . .”

 

Tôi cười:

 

–” Đùa với Kim Phượng một chút cho vui nhà vui cửa đó thôi . . .Hai người cặp tay nhau mùi mẫn quá khiến cho kẻ mồ côi nầy càng cảm thấy hiu quạnh đơn lẻ quá chừng! . . .Còn bé Uyên đâu rồi, sao không thấy ?”

 

Kim Phượng gục gật:

 

–” Cháu gái cưng của bác Hoài Nam sẽ tới gặp bác để đòi phần thưởng của bác ngày trước đã hứa với nó đó! . . .Anh than vãn cô quạnh phải không? Tại anh già kén chẹn hom chứ khối gì người thương anh. Ráng chịu thêm chút nữa cho tới khi nào bắt đầu chống gậy rồi hẳn cưới vợ để vợ lo ma chay chôn cất cho tươm tất . . .Bây giờ thì kính mời ba và bác Hoài Nam cùng đi với vợ chồng em vào phòng tiếp tân kẻo trễ . . .”

 

Quan khách trong phòng tiếp tân đầy ngập, đa số là thành phần có máu mặt ở Sài Gòn. Họ đứng chen chúc nhau khắp cả gian phòng rộng lớn. Bà đốc phủ sứ lăng xăng tới lui hỏi han trò chuyện với các bậc khách nữ lưu sang trọng.

 

Trên bục cao ở cuối gian phòng, tấm màn nhung đỏ vừ được kéo lên để mở đầu phần văn nghệ giúp vui. Khi tất cả quan khách đều quay mặt hướng về phía sân khấu thì một thanh niên trẻ, thật đẹp trai từ bên trong bước ra đọc lời giới thiệu chương trình phụ diễn.

 

Từ một góc phòng ngó xéo về phía sân khấu, bà đốc phủ sứ kề tai xì xầm với một người bạn cùng lứa tuổi:

 

–” Cháu ngoại trai của tôi đó chị . . .Nó đang học trường quốc gia âm nhạc-kịch nghệ! . .”

 

Người bạn nhướng mắt ngạc nhiên:

 

–” Cậu trai đó là cháu ngoại của chị ? Con trai của vợ chồng Kim Phượng đó sao ?”

 

–” Đúng đó, Nó là em của con Phượng Uyên. Nó có khiếu diễn xuất, đóng tuồng cho nên ba mẹ và ông ngoại của nó để cho nó tự do chọn học ngành kịch nghệ . Đợi cho nó ra trường, tôi và ông ngoại nó sẽ lập một gánh hát thiệt lớn để cho nó trổ tài diễn xuất . . .Nó hay lắm chị ơi! . . .Mốt lát nữa chị coi nó đóng vai chánh diễn tuồng KHI NGƯỜI ĐIÊN BIẾT YÊU với nhóm kịch sĩ tài năng của trường quốc gia âm nhạc và kịch nghệ đào tạo . . .”

 

Từ phía cuối phòng tôi sững sốt đưa tay chỉ về phía sân khấu rồi hỏi vợ chồng Kim Phượng:

 

–” Hùng Cường Nhí đó phải không?”

Giọng nói của ông đốc phủ sứ đầy vẻ tự hào:

 

–” Đúng đó!”

 

Kim Phượng nắm tay tôi siết nhẹ hai lần rồi cũng mỉm cười gật đầu:

 

–” Con trai em đó! Chiến không anh Hoài Nam ?”

 

–” Trời ơi! Sao bảnh trai quá chừng vậy? Lâu quá không thấy, bây giờ thì nó lớn quá và thật tuấn tú đỉnh ngộ . . .”

 

Mặt ông đốc phủ sứ lộ rõ nét hân hoan. Ông nhìn tôi với đôi mắt tỏa ngời hãnh diện và hạnh phúc:

 

–” Sau khi cháu nó tốt nghiệp trường Kịch Nghệ, tôi sẽ lập một gánh hát lớn cho nó làm bầu và thủ vai chánh. Hiện giờ vẫn còn đang đi học vậy mà đã có nhiều đoàn hát cải lương nổi tiếng ở Sài Gòn ngỏ ý mời ký giao kèo dài hạn rồi đó ! . . .”

 

Có một giọng nói lạ của một người đàn ông từ phía cửa ra vào của phòng tiếp tân:

 

–” Thật là đại phúc! Gia đình sum hợp đề huề, rể hiền, con thảo xứng đôi, cháu gái cháu trai đầy đủ, còn ai có thể sánh với gia đình của ông bà dốc phủ sứ Trần Kim Quy nữa chứ ? . . .”

 

Mọi người quay lại. Giọng của Phượng Uyên vang ngân như tiếng chuông:

 

–” Ông ngoại, bà ngoại ơi ! . . .Biết ai đây không? Đây là ông tổng giám đốc cảnh sát hồi xưa đã bắt nhốt rồi lại thả con và em con đó, ông bà ngoại nhớ không? Còn đây là bạn trai rất thân của con mà cũng là con trai út của ông tổng giám đốc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .”

 

Trên sân khấu, hùng Cường Nhí đã bắt đầu trổi giọng. Gian phòng trở thành quá ấm cúng đối với tôi. Ngày đó, tôi đã hứa Phượng Uyên là sẽ có quà thưởng khi Phượng Uyên tốt nghiệp trung học. Bây giờ sực nhớ lại lời hứa, tay tôi tự nhiên lần mò hai túi quần thì mới khám phá ra được là túi nào cũng rỗng không rách thủng !

 

Hết

 

Viết xong vào ngày đầu năm Giáp Tuất

tức ngày 9 tháng 2d.l năm 1994.

 

Những Bài Liên Quan

Copyright © 2023 dactrung.com; all rights reserved