Ừa ! để tui kể tiếp chiện tình của tui, cho chị đỡ buồn chiện kinh tế suy thoái trầm trọng, dù đã mở kho dầu, mấy thằng chủ bán dầu ích kỷ lo bo bo kiếm tiền hỗng nghĩ tới nhơn loại cần dầu chạy xe cần dầu ủ ấm, tui hỗng có tiền mua xe chạy bằng điện nên tui ghét tụi nó khơi khơi hà chị! Phải mà ngoại tui còn sống heng, bả rủa là “đồ hà bá thiên binh, sống không nhân nghĩa, chết thành con đuông.”
Đó chị coi ngày tui dìa nhà chồng, tui chưa hề có mảnh tình nào dzắt vai làm màu đặng ca ư ử “đến khi lấy chồng chỉ còn mối tình mang theo.” Tui tin ba tui có đức thiệt, bị dì ổng tôn thờ mình ên má tui, không biết trăng cũng không biết lê, chỉ biết má tui là đèn soi cho ổng, là lựu cho ổng bốc lủm từng hột mùa hè. Ai hò ai ca “Trách ai tham đó bỏ đăng, thấy lê quên lựu thấy trăng quên đèn” thì ca thì hò, chớ ổng ha ổng nói tui nghe dzầy nè: “Một vợ nằm giường lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ mất ráo trọi, nên Tía tôn thờ má bay đặng nằm giường lèo suốt kiếp.”
Ngược lại Má tui mê Tía tui có dây, hễ ổng hở ra muốn gì thèm chi má tui lo cho ổng hết ráo, mê gà đá, má tui mua con gà đá, mê chơi cá chọi má tui đào cho ổng một đìa, mê bạn nhậu má tui gầy độ cho tía tui làm chủ xị, nghe thấy sợ chớ tía tui lần quần trong khu nhà tươm tất, mái hiên xanh ngợp bóng dừa, lùm tre. Có hai ba con gà đá ổng lo chăm cho tốt mã, lâu lâu cho nó đá dí con gà của ông Tư Lủng hàng xóm, gọi cái đìa cá đá cho ngon, chớ nó bự cỡ cái ang chớ mấy, ba con cá lia thia phùng mang thấy thương, có con màu cam đỏ thiệt ngộ, còn nhậu heng má tui mua hai xị đế nếp bên bà Tám Cò, má tui nói rượu cất gia truyền đời này qua đời khác uống ngậm mà nghe. Hồi nhỏ tui mang chân đi mua rượu chớ ai, mùi thơm từ cái bong bóng bò đựng rượu chiết qua cái xị đong đặng bán, tui ngửi còn nghiền mà. Tới hồi có chồng tui mới biết bà già tui nhốt tía tui trong lâu đài của bả, có khe hở nào đặng ổng biết trăng biết lê mà thèm.
Quớ trời, thì tui cũng có chồng chớ sao, cần chi có tình mảnh mảnh vắt vai mới tìm ra chồng, cũng nhờ cái đám trái khổ qua mà tui kiếm ra ổng đặng thờ. Chị đừng bắt bẻ tui, từ hồi cụi cụi bẻ gãy sừng trâu tui đã hứa dí lòng mình, tự ên tui đi tìm chồng cho tui, không cho Ngoại – Tía – Má tui dính dô bày binh bố trận đặng tôn thờ giả, ai lập miễu thờ tá lả bùng binh chi thờ, tui nguyền trong dạ thờ người đờn ông tui yêu tui quí, tui chung chạ chiếu mền, ngủ chung một giường, ăn chung một mâm, ở chung một nhà, giặt đồ chung chậu, chị hỗng nhớ câu ru: chim quyên ăn trái nhãn lồng, lia thia quen chậu dzợ chồng quen hơi ha.
Thì tui kể rồi đó, Ngoại tui chỉ tui đủ chiện mần khéo, cái hồi ổng lơn tơn dô tiệm may của cô Ba tui, đặt cô ba tui may ba cái lon lá chi đó dô bộ đồ lính của ổng, cô Ba tui mắc xẹt ra chợ, nên ổng gặp tui. Mèn ơi! Giọng bắc của ổng ngộ thiệt ngộ nghen chị, tui hả họng dòm ổng chết trân sượng ngắt khi nghe ổng hỏi:
– Không dám chào cô, cô cho tôi hỏi được không?
Ổng dzừa nói dzừa bỏ cái nón xuống nữa chớ, thiệt nghen, người miền nam mình, nói là nói có ai xin phép dị chớ, tui lúng búng trong họng, rồi hỗng biết sao tay tui kiếm cái chéo áo mân mê kiếm thêm can đảm, cùng lúc heng tui hết dám dòm ổng, mắt t tui dòm xuống cục gạch bông, má tui nó hừng hực, sau này ổng biểu khó kiếm đặng màu phấn nào đẹp bằng màu má tui bữa đó đó nha chị .
– Dzà, ông hỏi đi?
– Tôi muốn may hai cái lon này lên hai bên cổ áo, giá bao nhiêu, bao giờ thì xong, thưa cô?
Tui nghe mà lùng bùng lỗ tai, chưa từng ai dùng chữ “thưa” dí tui nghen chị, trong nhà tui nghe tới chữ thưa là có chiện lớn đa, cỡ đám rộn ràng lắm lận, ít khi nào dùng trong cuộc nói chuyện tay đôi như tui dí ổng lúc đó, mà cô Ba tui mới biết tính bao nhiêu tiền, còn bao giờ tui nghiệm ra chắc ổng hỏi bao lâu xong, tui cũng đế biết luôn, hên sao cô Ba tui dìa tới, khi không tui u chạy dzô trong nhà, không nói một lời từ biệt. Chút híu sau dượng Ba tui đi mần dìa, cái rồi tui nghe lao xao ngoài ngoải, cái rồi giọng cô Ba tui kiêu: “Lụa ơi! Châm trà đãi khách nghen Lụa!” Tui châm bình trà bưng ra, chị biết sao hôn, ổng ngồi chình ình trên cái ghế salon bàn khách, phía trong tấm màn che phân đôi với tiệm may mặt tiền nhà. Tui còn chưng hửng, dượng Ba tui giới thiệu: “Anh đây là đàn em của dượng, ảnh tên là Hùng, lâu ngày không gặp, dè đâu gặp ngay nhà, thiệt là duyên chiến hữu.”
Duyên chi tui hông biết, mà sau đó ổng được dượng tui mời lợi nhà ăn uống điều chi, khúc đó ổng đang trị vết thương chiến trường, được tăng cấp lên hai bông mai, gia đình ổng ở đâu mút trên Đà Lạt, nên dượng tui coi ổng như người trong nhà.
Tui nhớ bữa cơm tui nấu canh khổ qua cá thác lác, ổng ăn miếng đầu bỏ đũa nuốt trọng, ăn miếng thứ hai ổng nhai chậm chậm ngồi nghe, đến miếng thứ ba ổng hỏi: “Cô Lụa ơi, trái này phải là trái mướp đắng không cô? Ăn thì đắng mà nuốt xong rồi lại có vị ngọt?”
Lần này tui quen rồi nên bớt mắc cở, nói lại: “Trái khổ qua chớ đâu phải mướp đắng!” Cô Ba tui cười rân: “Con nhỏ khờ hết biết, người bắc gọi trái khổ qua là quả mướp đắng đó con.” Tui ngỏn nghẻn cúi mặt lùa ba hột cơm dấu cặp má đỏ hường. Tới hồi ăn tráng miệng miếng bánh bò nướng, ổng khen tui nấu ăn ngon, chưa bao giờ Me của ổng nấu cho ổng ăn mấy món lạ như dị, rồi ổng hỏi tui nấu sao, kể ổng nghe đặng ổng dìa tả cho Me ổng nghe, thiệt dí chị heng, tui gọi Má, ổng gọi Me, mà hồi ổng nhắc tới Me của ổng nheng chị nó ngọt thôi là ngọt, hổng như tui nói tới Má là tui xài chữ bả ngon ơ, ổng gọi Me rồi thêm chữ “bà cụ” nữa chớ, y như đọc trong sách ra dị đó, tui tình thiệt tả liền:
– Nấu khổ qua dễ ẹc hà chú, đầu tiên heng, ra chợ mua khổ qua, sợ đắng thì biểu “bà cụ” lựa trái nào cái gai thiệt bự nó, trái nào gai nhỏ rí là nó đắng trời thần luôn nghen chú. Hễ nấu cúng là hầm nguyên trái, giữ nguyên cái cọng cho đẹp. Ngoại tui bả chỉ dì nè, phơi cho trái nó héo chút, rạch móc ráo ruột ra, sau đó dồn nhân dô trong. Khéo là chỗ này, nhồi sao cho đủ không thiếu đầu đuôi, nấu sao cho nước sôi trào ngập trái, đặng giữ màu xanh ngọc, mà hỗng được sôi bùng làm nhưn bên trong lòi phèo. Phần nhưn phải đi chợ cho sớm, mở hàng bà bán cá thác lác, không trả giá à nghen, đặng bả lựa mấy con mập u nạo thịt cho dai, mang dìa cho cá dô tô quết dữ nó, vừa quết vừa nhiểu mỡ dô, chung với nước mắm ngon, quết tới hồi dích lên miếng cá mịn màng bóng lưỡng, chú biểu “bả” ý quên “bà cụ” cho hành lá dí tiêu đâm dô, rồi đó thành nồi khổ qua hầm cá thác lác rồi đó.
Ổng ngồi nghe tui tả còn lấy giấy viết ra, ghi xuống nữa chớ, rồi ổng hỏi sao miếng canh ổng húp nó ngọt lừ mờ, tui hết hồn nghĩ thầm, thằng cha này có máu ăn uống thứ thiệt, húp miếng canh mà biết tui có nấu xương heo làm ngọt nước lèo, tui tính dấu chút nghề, mà không qua mặt được ổng, tui đành kể thêm dô luôn, không phải một món này thôi nghen, ổng còn đòi tui kể nhiều món lắm lận, cho tới hồi ổng biểu: “Cô Lụa à, đừng gọi tui là chú nữa được hônnnnn!” câu này ổng giả giọng nam lơ lớ nghe tức cười mà tui không dám. Tới khúc này, chiện tui dí ổng đã qua chục bận tả món ăn, ‘cho “Me tôi nấu”’ nên tui quen ổng hung rồi, đâu ngại ngùng chi nữa, tui nói lại liền: “Chú là bạn của dượng tui, tui phải gọi dị mới đúng chớ!” Ổng tấn tới mục tiêu luôn: “Xưng hô trong gia tộc khác cách xưng hô với người không cùng máu mủ. Cô Lụa à, để tôi xin với anh Ba cho tôi gọi anh ấy là Dượng được không Lụa!”
Cha má ơi! Tui tưởng tui ngon nghen chị, tui tưởng tui thuộc loại cây gõ cây trắc cứng còng, ai dè trước mặt ổng tui thành nhánh tầm gởi, nhánh tơ hồng mềm xèo mềm lả, tui bắt đầu rung, giác quan thứ sáu thứ chín thứ mười gì tui không biết, mà tay chưn tui nó lính quýnh, mèn ơi cặp mắt ổng dòm tui lom lom muốn hút toàn bộ linh hồn tui dô trỏng, Tía ơi ! rồi rồi đức của tía cho con gái Tía, bước cái một lên quan rồi Tía ơi, tui ngu gì thì ngu chớ, lời tỏ tình miền bắc tui hiểu liền, chị coi câu ông bà nói trúng thầy chạy không chị, “tình yêu của người đờn ông phát xuất từ cái bao tử” ai cần hỏi tình yêu là gì, chớ tui là tui rành hơn sáu câu luôn, yêu là ăn chớ chi, không ăn ngon lấy chi yêu.
Từ chén canh khổ qua tui đường đường bước lên chức bà trung úy cái một, chị mà thấy bà Ngoại tui bận áo dài đỏ búi tó dầu dừa, đeo cho tui đôi bông mù u trước bàn thờ có cặp đèn cầy đỏ gắn con phụng con rồng là chị khóc mùi luôn đó, bả làm tui khóc ngon lành, tui khóc thiệt nghen chị, hỗng có khóc làm màu “trinh nữ khấp vu quy” đâu nghen, khóc đây tui khóc dì tui sợ hỗng biết đi làm vợ nó ra làm sao, có bị người ta ăn hiếp không, nhứt là dòm má chồng tui lạ hoắc, mai mốt sống chung tui nấu cho bả ăn có vừa miệng hông, chưa tính chiện tối động phòng tui phải làm gì nữa chớ, hồi má tui phụ tui mặc đồ đội bông, bả dặn hầm bà lằng, làm tui vừa thương má tui vừa khớp hung thêm. Cô Ba tui hiểu tâm lý bạn gái nên cổ chọc cho tui cười đỡ sợ. Bữa khuya nhóm họ cổ biểu: “Con Lụa có tướng mông chề, mai mốt nó mê chồng hết cản.” mèn ơi đám chị em họ chưa chồng của tui cười rân muốn bể gian bếp, tui tính nói: “Chồng tui, tui mê có chi mà mấy chị cười !” mà tui kềm lại được, cô dâu phải hiền dịu chút đỉnh, chứ đâu như ngày thường được phải hông chị.
Hồi bước ra cửa theo chồng, cô Ba tui còn ráng bỏ nhỏ vô tai tui: “Đèn của bay cháy nổi bông, mai mốt bay lấn chồng dữ à nghen.” Nghe dị tui cũng đỡ hồi hộp.
Từ ngày lấy chồng bắc kỳ đến giờ mấy chục năm rồi nghen chị, tui lây ổng biết nhiêu mà nói, từ con Lụa quê trờ quê trật, tui biết làm đẹp lý le cho ổng đẹp mày đẹp mặt, tui biết ăn nói dạ thưa, tui bớt kêu Tía – Má là ổng bả, nhưng ngược lại chồng tui ổng biểu: “Chữ tiếng đâu có làm giảm sự tôn kính thật sự trong lòng, chau chuốt quá thành đầu môi chót lưỡi cũng đâu có hay hả em .”
Chị biết sao hông, cho tới giờ phút này tui cũng còn thờ ổng nghen chị, mà y hình ổng cũng có thờ tui nữa đó, tại tui biết nấu khổ qua hầm dồn cá thác lác, thác lác y không thêm thịt heo, không kèm bún tàu, không chấp không vá, mộc mạc quê mùa dấu cái duyên nước lèo xương heo, điểm hành ngò lóng lánh, chưa kể tui tận dụng ruột trái khổ qua bầm luôn hột xào khô, trộn vô tàu hũ bằm chiên hườm nêm nếm muối xì dầu đường, ăn chay ngày rằm tạ ơn ông tơ bà nguyệt, chị nhớ phi đầu xả cho thiệt thơm ngheo.
Tình nghĩa vợ chồng đắng như khổ qua, chịu được nó nuốt vô lục phủ ngũ tạng thành ngọt ngào bổ dưỡng, chữa dứt bao nhiêu bịnh tật nghen chị . Chị đừng hỏi tới, tui hỗng dám thài lay đâu, mấy ông bác sĩ kiện tui sao.
Tui tặng chồng tui bài thơ tui Tình Xuân phơi phới nè, khoe cho chị biết khi có tình yêu con Lụa cũng biết mần thơ nữa đó
Ông ơi mùa Xuân len lén tới
Con chim chèo bẻo nó gọi rân trời
Mấy cái nụ mai coi chừng muốn nở
Tui dặn dò: “khoan nở đợi giao thừa.”
Hôm qua tui ra vườn hái trái
Đám bưởi dây vừa kịp chín trên cây
Giàn trầu xanh lá vừa tầm đặng hái
Buồng cau măng trái căng mọng hây hây.
Ông có nghe hương hoa vạn thọ
Rủ đám bướm vàng bay lượn quanh co
Rồi thêm bày chim sẻ ù ríu rít
Bẹ dừa oằn con chim én rúc vô
Ông thấy không vàng rơi cành quít
Lá xanh um không che hết mỹ miều
Trái bóng lưỡng hẹn hò tan vị ngọt
Tui bẻ mấy chùm đặng đón ông bà
Ông có rảnh ra vườn chặt lá
Lựa tàu lá nào liền lặn à nha
Tui sẽ gói hai chục đòn bánh tét
Mang chia cùng làng xóm đón Xuân sang
Ừa còn chiện tui dí ông hai đứa
Cũng y nguyên như Xuân thuở năm xưa
Đến Xuân này như men nồng rượu thắm
Ông lại gần đây cho tui tựa mái đầu.
Ấu Tím (Xuân 20..)